Thuốc Arimidex 1mg giá bao nhiêu mua thuốc ở đâu
Viên bao 1 mg : hộp 28 viên
Thành phần
Cho 1 viên
Anastrozole 1 mg
Dược lực
Arimidex là một thuốc ức chế men aromatase không steroid có tính chọn lọc cao và tác dụng mạnh. Ở phụ nữ hậu mãn kinh, oestradiol được sản xuất chủ yếu từ sự chuyển đổi androstenedione sang oestrone nhờ phức hợp men aromatase ở các mô ngoại vi. Sau đó oestrone chuyển thành oestradiol. Việc giảm lượng oestradiol trong máu đã chứng minh mang lại tác dụng có lợi cho bệnh nhân ung thư vú. Trên bệnh nhân hậu mãn kinh, Arimidex với liều 1 mg mỗi ngày đã làm giảm trên 80% lượng oestradiol bằng cách sử dụng một xét nghiệm có độ nhạy cảm cao.
Arimidex không gây ra các tác động kiểu progesterone, androgen, hay oestrogen. Qua việc đo lường trước và sau test thử ACTH tiêu chuẩn, người ta thấy rằng liều dùng hàng ngày của Arimidex lên tới 10 mg cũng không gây ảnh hưởng nào đến sự bài tiết cortisol hay aldosterone. Do đó không cần phải cung cấp thêm corticoid.
Trong một nghiên cứu lớn pha III trên 9.366 phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú xâm lấn giai đoạn sớm, điều trị hỗ trợ bằng anastrozole sau phẫu thuật đã cho thấy vượt trội về mặt thống kê so với tamoxifen với tiêu chuẩn chính để đánh giá là khoảng thời gian đến khi bệnh tái phát. Do dữ liệu còn quá mới nên chưa thể xác định mức độ của lợi điểm này khi dùng lâu dài hoặc liệu điều này sẽ thể hiện thành ưu điểm về khả năng sống còn khi dùng anastrozole. Hiện tại vẫn chưa biết là anastrozole có làm tăng thêm khả năng sống còn ở bệnh nhân đang dùng hóa trị như đã được biết với tamoxifen hay không. Tính an toàn khi điều trị dài hạn với anastrozole vẫn chưa được biết.
Khi dùng phối hợp Arimidex và tamoxifen, hiệu quả và tính an toàn cũng chỉ tương tự như khi dùng tamoxifen riêng lẻ bất luận tình trạng thụ thể nội tiết. Cơ chế chính xác của điều này vẫn chưa rõ. Người ta không nghĩ rằng điều này là do kết quả giảm khả năng ức chế oestradiol của Arimidex.
Dược động học
Anastrozole được hấp thu nhanh và nồng độ tối đa trong huyết tương thường đạt được trong vòng 2 giờ sau khi uống.
Anastrozole được thải trừ chậm với thời gian bán thải là 40 – 50 giờ. Thức ăn có thể làm giảm nhẹ tốc độ hấp thu chứ không làm giảm mức độ hấp thu của thuốc. Sự thay đổi nhỏ trên tốc độ hấp thu không gây ảnh hưởng nào đáng kể về mặt lâm sàng trên nồng độ thuốc đạt được trong huyết tương ở pha ổn định trong suốt liều dùng mỗi ngày một lần của Arimidex. Khoảng 90 – 95% nồng độ của anastrozole huyết tương ở pha ổn định đạt được sau 7 ngày với liều duy nhất trong ngày. Không có bằng chứng nào cho thấy các thông số dược động học của anastrozole phụ thuộc vào liều dùng và thời gian sử dụng.
Dược động học của anastrozole cũng không phụ thuộc vào tuổi tác của bệnh nhân hậu mãn kinh.
Dược động học không được nghiên cứu trên trẻ em.
Anastrozole chỉ gắn kết 40% với protein huyết tương.
Ở các bệnh nhân nữ hậu mãn kinh, anastrozole được chuyển hóa mạnh, ít hơn 10% liều ban đầu được bài tiết qua nước tiểu dưới dạng không đổi trong vòng 72 giờ sau khi uống. Anastrozole được chuyển hóa bằng cách N-dealkyl hóa, hydroxyl hoá, và glucuronidase hóa. Sản phẩm chuyển hoá được bài tiết ra nước tiểu. Triazole, sản phẩm chuyển hóa chính trong huyết tương không có hiệu quả ức chế được men aromatase.
Độ thanh thải biến kiến của anastrozole sau khi uống ở người tình nguyện bị xơ gan ổn định hay tổn thương thận thì tương tự với độ thanh thải ở người tình nguyện khỏe mạnh.
An toàn tiền lâm sàng
– Độc tính cấp: Các nghiên cứu độc tính cấp ở loài gặm nhấm cho thấy liều gây chết trung bình của anastrozole lớn hơn 100 mg/kg/ngày qua đường uống và lớn hơn 50 mg/kg/ngày qua đường tiêm trong phúc mạc. Nghiên cứu độc tính cấp sau khi uống ở chó cho thấy liều gây chết trung bình lớn hơn 45 mg/kg/ngày.
– Độc tính mãn: Những nghiên cứu độc tính khi dùng đa liều đã được thực hiện trên chó và chuột. Trong những nghiên cứu về độc tính, anastrozole đã chứng tỏ là không có những nồng độ thuốc không có ảnh hưởng, nhưng những ảnh hưởng này, được quan sát thấy ở liều thấp (1mg/kg/ngày) và liều trung bình (chó: 3mg/kg/ngày, chuột: 5mg/kg/ngày) thì liên quan đến đặc tính dược lý hoặc đặc tính gây cảm ứng men của anastrozole và không đi kèm với những thay đổi độc tính hay thoái biến đáng kể.
– Tính gây đột biến: Những nghiên cứu độc tính về di truyền cho thấy anastrozole không phải là tác nhân gây đột biến hay phân đoạn nhiễm sắc thể.
– Độc tính lên sự sinh sản: Ở chuột và thỏ đang mang thai, liều uống anastrozole tương ứng lên tới 1,0 và 0,2 mg/kg/ngày không gây ra quái thai. Những ảnh hưởng mà người ta có thể thấy được (nhau bám rộng ở chuột, suy thai ở thỏ) đều liên quan đến dược lý học của hợp chất này. Khả năng sống sót giảm ở những lứa chuột được sinh ra bởi những chuột mẹ dùng anastrozole ở liều ≥ 0,02mg/kg/ngày (kể từ ngày 17 của thai kỳ đến ngày 22 sau khi sanh). Những tác động này liên quan đến tác động dược lý học của hợp chất lên quá trình sinh sản. Không có tác dụng ngoại ý nào trên hành vi và trên quá trình sinh sản của thế hệ con đầu tiên có mẹ được điều trị bằng anastrozole.
– Tính gây ung thư: Nghiên cứu về tính gây ung thư ở chuột lớn 2 tuổi cho thấy chỉ ở liều cao (25 mg/kg/ngày), anastrozole mới gây tăng tần suất u gan và polip ở tử cung chuột cái và u tuyến giáp ở chuột đực. Các thay đổi này xảy ra ở liều gấp 100 lần liều điều trị ở người và không có mối liên hệ lâm sàng với việc điều trị bằng anastrozole. Nghiên cứu về tính gây ung thư ở chuột nhắt 2 tuổi cho thấy anastrozole gây u buồng trứng lành tính và thay đổi về tần suất u mô lưới hạch bạch huyết (sacôm mô bào ở chuột cái ít hơn và chết do u bạch huyết nhiều hơn). Các thay đổi này được xem là các tác động đặc trưng đối với chuột nhắt do sự ức chế men aromatase và không có mối liên quan về mặt lâm sàng với việc điều trị bằng anastrozole.
Chỉ định
Arimidex được chỉ định để điều trị hỗ trợ cho phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú giai đoạn sớm có thụ thể oestrogen dương tính. Hiệu quả của Arimidex trong điều trị ung thư vú giai đoạn sớm được dựa vào bảng phân tích thời gian sống không tái phát bệnh ở bệnh nhân đã điều trị trong thời gian bình quân là 31 tháng. Cần tiếp tục theo dõi các bệnh nhân nghiên cứu để xác định hiệu quả dài hạn của thuốc.
Điều trị ung thư vú tiến triển ở phụ nữ sau mãn kinh. Ở những bệnh nhân có thụ thể estrogen âm tính, hiệu quả của thuốc chưa được chứng minh trừ phi các bệnh nhân này đã có đáp ứng tích cực trên lâm sàng với tamoxifen trước đó.
Chống chỉ định
Arimidex chống chỉ định trong các trường hợp sau :
– Bệnh nhân tiền mãn kinh
– Phụ nữ mang thai và đang cho con bú
– Bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinine < 20 ml/phút)
– Bệnh nhân bệnh lý gan trung bình và nặng
– Bệnh nhân quá mẫn cảm với anastrozole hay các thành phần tá dược khác (được ghi trên hộp thuốc)
Các liệu pháp có sử dụng oestrogen không nên dùng kèm với Arimidex vì chúng có thể làm mất tác dụng dược lý của thuốc.
Không điều trị cùng lúc với tamoxifen (xem Tương tác thuốc).
Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng
Không nên dùng Arimidex cho trẻ em vì chưa chứng minh được tính an toàn và hiệu quả ở nhóm bệnh nhân này.
Những bệnh nhân có vấn đề về tình trạng nội tiết phải được xét nghiệm sinh hóa để xác định tình trạng mãn kinh.
Chưa có bằng chứng nào về tính an toàn của Arimidex ở bệnh nhân suy gan trung bình hay nặng, hoặc ở những bệnh nhân suy thận nặng (độ thanh thải creatinine < 20 ml/phút).
Phụ nữ bị loãng xương hoặc có nguy cơ loãng xương nên được đánh giá chính thức mật độ xương bằng máy đo mật độ xương, như là máy quét DEXA, trước khi bắt đầu điều trị bằng Arimidex và định kỳ sau đó. Việc điều trị hoặc dự phòng bệnh loãng xương nên được bắt đầu khi thích hợp và theo dõi cẩn thận.
Chưa có dữ liệu về việc dùng anastrozole với chất có cấu trúc tương tự LHRH. Kết hợp này không nên thực hiện ngoại trừ sử dụng trong các thử nghiệm lâm sàng.
Tác dụng lên khả năng lái xe hay vận hành máy móc :
Arimidex không làm mất khả năng lái xe hay vận hành máy móc của bệnh nhân. Tuy nhiên, chứng suy nhược và buồn ngủ đã được ghi nhận khi sử dụng Arimidex, và nên lưu ý khi đang lái xe hay vận hành máy móc trong trường hợp xuất hiện những triệu chứng như vậy.
Lúc có thai và lúc nuôi con bú
Arimidex chống chỉ định cho phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi con bú.
Tương tác thuốc
Những nghiên cứu về tương tác thuốc trên lâm sàng với antipyrine và cimetidine chứng tỏ rằng sử dụng chung Arimidex với các thuốc khác không hẳn đã gây ra các tương tác thuốc đáng kể trên lâm sàng qua trung gian cytocrome P450.
Những dữ kiện về tính an toàn trong các nghiên cứu lâm sàng cho thấy không có bằng chứng về một sự tương tác thuốc đáng kể nào trên lâm sàng ở các bệnh nhân đang điều trị bằng Arimidex mà có dùng chung các thuốc kê toa thông thường khác.
Các liệu pháp có sử dụng oestrogen không nên dùng kèm với Arimidex vì chúng có thể làm mất tác dụng của nhau.
Tamoxifen không nên dùng đồng thời với Arimidex vì có thể làm giảm tác động dược lý của Arimidex (xem Chống chỉ định).
Tác dụng ngoại ý
Rất thường gặp (≥ 10%):
Mạch máu: Cơn bốc hỏa, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Thông thường (1-10%):
Toàn thân: Suy nhược, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Hệ cơ-xương, mô liên kết và xương: Đau/cứng khớp, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Hệ sinh sản và tuyến vú: Khô âm đạo, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Da và mô dưới da: Tóc thưa, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình. Nổi mẩn, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Hệ tiêu hóa: Buồn nôn, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình. Tiêu chảy, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Hệ thần kinh: Nhức đầu, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Ít gặp (0,1-1%):
Hệ sinh sản và tuyến vú: Xuất huyết âm đạo, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình*.
Chuyển hóa và dinh dưỡng: Biếng ăn, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình. Tăng cholesterol huyết, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Tiêu hóa: Nôn mửa, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Hệ thần kinh: Ngủ gà, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Rất hiếm gặp (<0,01%):
Da và mô dưới da: Hồng ban đa dạng. Hội chứng Stevens-Johnson.
* Xuất huyết âm đạo ít được ghi nhận, chủ yếu ở bệnh nhân ung thư vú tiến triển trong vài tuần đầu tiên sau khi chuyển từ liệu pháp nội tiết sang điều trị bằng Arimidex. Cần đánh giá thêm nếu hiện tượng xuất huyết vẫn còn.
Tăng g-GT và alkaline phosphatase ít được ghi nhận (≥ 0,1% và <1%). Vẫn chưa xác định được mối quan hệ nhân quả của các thay đổi này.
Liều lượng và cách dùng
Người trưởng thành (kể cả người lớn tuổi) : 1mg, uống mỗi ngày một lần.
Trẻ em : không được khuyến cáo dùng cho trẻ em.
Suy thận : không cần giảm liều ở bệnh nhân suy thận nhẹ và trung bình.
Suy gan : không cần giảm liều ở bệnh nhân có bệnh gan nhẹ.
Đối với bệnh ở giai đoạn sớm, thời gian điều trị khuyến cáo là 5 năm.
Quá liều
Kinh nghiệm lâm sàng về sự vô ý sử dụng thuốc quá liều còn giới hạn. Trong các nghiên cứu ở súc vật, anastrozole cho thấy khả năng gây độc tế bào cấp tính thấp. Trong các nghiên cứu lâm sàng thực hiện với những liều khác nhau của Arimidex với liều lên tới 60 mg/1 liều đơn cho nam giới tình nguyện khỏe mạnh và 10 mg mỗi ngày cho bệnh nhân ung thư vú tiến triển hậu mãn kinh, các liều này đều được dung nạp tốt. Không ghi nhận được liều đơn Arimidex nào có thể đe dọa tính mạng bệnh nhân.
Không có thuốc giải đặc hiệu cho sự quá liều Arimidex và điều trị thường là giải quyết triệu chứng. Đối với các trường hợp quá liều, nên xử trí một cách toàn diện. Nếu bệnh nhân còn tỉnh thì cho gây nôn. Thẩm phân có thể hữu ích vì Arimidex ít gắn kết với protein huyết tương. Chăm sóc hỗ trợ tổng quát, ghi nhận thường xuyên các dấu hiệu sinh tồn và theo dõi bệnh nhân chặt chẽ.
Bảo quản
Không bảo quản thuốc ở nhiệt độ trên 30°C.
Nguồn: Vidal Việt Nam
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.