THUỐC ENBREL 25MG LÀ GÌ?
Thuốc Enbrel 25mg chứa thành phần Etanercept 25mg được chỉ định trong điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp, bệnh viêm đa khớp mạn tính tiến triển, bệnh viêm khớp vảy nến, viêm cứng khớp đốt sống tiến triển, bệnh nhân mảng vảy nến từ vừa đến nặng. thuockedon24h.com
Thuốc Enbrel 25mg do công ty Dược phẩm Pfizer sản xuất.
Quy cách đóng gói: Hộp 1 lọ bột pha tiêm 25mg + 1ml dung môi.
Bảo quản: 2-8 độ C, không làm đóng băng thuốc.
MUA THUỐC ENBREL Ở ĐÂU? GIÁ BAO NHIÊU
Bạn cần mua thuốc Enbrel 25mg, cần tư vấn cách sử dụng thuốc Enbrel? Cũng như cần biết địa chỉ mua thuốc Enbrel 25mg xin LH Ds Dũng 0978.342.324 để được tư vấn.
Giá thuốc Enbrel chính hãng khoảng 15.200.000 đồng/ Hộp/ ống 25mg. Liều thông thường Enbrel trong điều trị các bệnh là 50mg/ tuần. Như vậy chi phí sử dụng cho 1 tuần là khoảng 30.4 triệu đồng.
Thời gian đến lúc đạt được hiệu quả lâm sàng là khoảng 12 tuần, việc tiếp tục điều trị ở những bệnh nhân không đáp ứng với thuốc trong khoảng thời gian này cần xem xét kỹ lưỡng. Điều trị bằng Enbrel 25mg nên được tiếp tục đến khi bệnh thuyên giảm trong tối đa 24 tuần, một số bệnh nhân có thể điều trị tiếp tục sau 24 tuần (tham khảo thêm tại medicines.org.uk)
CHỈ ĐỊNH CỦA THUỐC ENBREL 25MGĐiều trị các dấu hiệu và triệu chứng và ngăn chặn sự thoái hóa về cấu trúc ở bệnh nhân trưởng thành bị avtive viêm khớp dạng thấp từ vừa đến nặng. ENBREL có thể dùng phối hợp với methotrexate cho những bệnh nhân không có đáp ứng phù hợp với methotrexate đơn thuần.
Điều trị viêm đa khớp mãn tính tiến triển ở người trẻ cho bệnh nhi từ 4 đến 17 tuổi không có đáp ứng thích hợp hoặc không dung nạp với methotrexate. ENBREL chưa được nghiên cứu ở những bệnh nhi dưới 4 tuổi.
ENBREL được chỉ định trong giảm dấu hiệu và triệu chứng viêm khớp tiến triển ở bệnh nhân trưởng thành bị viêm khớp vảy nến. ENBREL có thể được dùng phối hợp với methotrexate cho những bệnh nhân không đáp ứng với methotrexate đơn trị.
Điều trị dấu hiệu và triệu chứng của viêm cứng khớp đốt sống tiến triển ở bệnh nhân trưởng thành không có đáp ứng với trị liệu thông thường.
Điều trị cho bệnh nhân mảng vảy nến từ vừa đến nặng không đáp ứng hoặc có chống chỉ định hoặc không dung nạp với các trị liệu hệ thống có cyclosporine, methotrexate hoặc PUVA.
Chống chỉ định
Nhạy cảm với hoạt chất chính hay với một trong các tá dược.
Nhiễm trùng máu hoặc có nguy cơ nhiễm trùng máu (xem phần Chú ý đề phòng & thận trọng lúc dùng và Tác dụng ngoại ý).
LIỀU LƯỢNG VÀ CÁCH DÙNG THUỐC ENBREL 25MG
Điều trị với ENBREL phải được đề nghị và theo dõi bới bác sỹ chuyên khoa có kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị viêm khớp dạng thấp Rheumatoid Arthritis, viêm khớp vảy nến Psoriatic Arthritis, viêm cứng khớp đốt sống và Psoriasis
ENBREL có hàm lượng là 25 mg. Mỗi ống ENBREL được pha trong 1ml nước để pha tiêm trước khi thực hiện tiêm dưới da.
Bệnh nhân trưởng thành (18-64 tuổi)
Viêm khớp dạng thấp
Liều khuyến cáo là 25 mg ENBREL hai lần/tuần. Có thể thay bằng 50 mg một lần/tuần (như tiêm hai mũi 25 mg gần như cùng lúc) cho thấy có hiệu quả và an toàn (xem phần Dược lực học)
Viêm khớp vảy nến và viêm cứng khớp đốt sống
Liều khuyến cáo là 25 mg ENBREL hai lần/tuần hoặc 50 mg một lần/tuần.
Mảng vảy nến
Liều khuyến cáo của ENBREL là 25 mg hai lần/tuần. Liều 50 mg hai lần/tuần trong 12 tuần tiếp theo, nếu cần thiết có thể xen kẽ với liều 25 mg hai lần/tuần. Điều trị với ENBREL nên liên tục đến khi thuyên giảm cho đến 24 tuần. Nên ngưng thuốc ở những bệnh nhân không có đáp ứng sau 12 tuần điều trị.
Nếu có chỉ định tái điều trị với ENBREL nên tuân thủ hướng dẫn điều trị trên. Liều dùng là 25 mg hai lần/tuần
Bệnh nhân lớn tuổi (≥ 65 tuổi)
Không cần điều chỉnh liều. Cách sử dụng và chích thuốc giống như đối với bệnh nhân trưởng thành từ 18-64 tuổi.
Trẻ em và thiếu niên (≥ 4 đến < 18 tuổi)
0.4 mg/kg (tối đa là 25 mg cho mỗi liều) sau khi pha 25 mg ENBREL trong 1mL nước để pha tiêm, tiêm dưới da 2 lần/tuần với khoảng cách 3-4 ngày giữa các liều.
Suy thận và suy gan
Không cần điều chỉnh liều
Cách dùng
ENBREL được tiêm dưới da và đùi, bụng hay chi trên. Thay đổi vị trí mỗi lần tiêm và cách vị trí cũ ít nhất là 3 cm. Không tiêm vào những vùng da non, đau nhức, bầm máu, đỏ hoặc cứng.
Nếu ENBREL được tiêm bởi bệnh nhân hay thân nhân chăm sóc thì những đối tượng này phải được hướng dẫn về các pha bột với dung môi và kỹ thuật tiêm. Mũi tiêm đầu tiên nên được thực hiện dưới sự giám sát của một nhân viên y tế vững chuyên môn.
Cách pha ENBREL
ENBREL phải được dùng với sự hướng dẫn và giám sát của bác sĩ. Bệnh nhân có thể tự tiêm nếu được phép của bác sĩ khi đã được huấn luyện về kỹ thuật tiêm và có sự theo dõi của bác sĩ.
ENBREL nên được pha trong điều kiện vô trùng với 1mL nước pha tiêm đi kèm. Trong quá trình pha ENBREL, dung môi phải được cho thật chậm vào ống thuốc. Có thể sẽ tạo bọt. Để tránh quá nhiều bọt, không nên lắc hay khuấy động mạnh. Nên xoay tròn nhẹ ống thuốc trong khi hòa tan. Thông thường thì sự hòa tan của ENBREL diễn ra dưới 10 phút. Dung dịch phải trong suốt và không màu.
Trước khi tiêm nên quan sát kỹ dung dịch để tìm xem có những phần tử nhỏ hay có màu bẩn hay không. Không nên tiêm nếu có màu hoặc có vẩn hay có những phần tử nhỏ còn sót lại. Rút dung dịch vào ống tiêm, lấy ra càng nhiều dung dịch càng tốt. Một ít bọt hay bong bóng có thể còn lại trong ống thuốc. Thể tích cuối cùng trong ống tiêm vào khoảng 1 mL.
Không thêm các chất trung gian vào dung dịch ENBREL và cũng không nên pha ENBREL với bất kỳ dung môi nào khác. Không lọc dung dịch trong khi pha hay trước khi tiêm.
Vị trí tiêm bao gồm đùi, vùng bụng hay chi trên. Nên luân phiên thay đổi vị trí tiêm. Các mũi tiêm mới nên cách chỗ tiêm cũ ít nhất 3 cm và không bao giờ tiêm vào vùng da mông, bị thâm tím, đỏ hay cứng (xem phần Hướng dẫn cách pha và tiêm ENBREL cho bệnh nhân trong tờ hướng dẫn)
Cách pha
Pha bột ENBREL trong điều kiện vô khuẩn bằng cách tiêm thật chậm 1 mL dung môi vào ống thuốc. Nhẹ nhàng xoay tròn để tránh tạo bọt. Nếu có một ít bọt là bình thường. Không lắc hay làm rung mạnh. Thuốc tan trong vòng dưới 10 phút.
Mô tả
ENBREL (etanercept) là một protein hợp nhất của thụ thể p75 Fc đối với yếu tố hoại tử khối u ở người, được sản xuất bởi kỹ thuật tái tổ hợp DNA trên hệ thống diễn tả của động vật có vú ở buồng trứng chuột đồng Trung Hoa (CHO). Etanercept là nhị phân tử của protein chimeric được thiết kế về mặt di truyền bằng cách hợp nhất các kết nối ngoại bào liên kết các domain của thụ thể 2 của yếu tố hoại tử khối u ở người (TNFR2/p75) với domain của IgG1 của người. Thành phần Fc này có chứa cầu nối ở vùng CH2 và CH3 nhưng không có vùng CH1 của IgG1. Etanercept chứa 934 amino acid và có phân tử lượng vào khoảng 150 kilodaltons. Hiệu lực được xác định bằng cách đo khả năng trung hòa của etanercept với sự ức chế phát triển qua trung gian TNFá của tế bào A375. Hoạt tính đặc hiệu của etanercept là 1,7 x 106 đơn vị/mg.
ENBREL thành phẩm được cung cấp dưới dạng bột đông khô màu trắng đã được tiệt trùng và không chứa chất bảo quản. Bột này để pha tiêm sau khi hòa với 1 ml nước vô trùng pha tiêm được cung cấp kèm theo. Sau khi hòa tan, dung dịch ENBREL trong suốt và không màu với pH là 7,4 ± 0,3. Mỗi ống chứa 1 liều đơn ENBREL 25mg etanercept, 40mg mannitol, 10mg đường sucrose và 1,2 mg tromethamine.
Dược lực
Yếu tố hoại tử u (TNF) là một cytokine chủ yếu trong quá trình viêm của viêm khớp dạng thấp. TNF cũng được thấy với hàm lượng cao trong hoạt dịch và những mảng vảy nến của bệnh nhân bị viêm khớp vảy nến và trong huyết thanh và mô hoạt dịch của bệnh nhân viêm cứng khớp đốt sống. Trong mảng vảy nến, sự thâm nhiễm bởi những tế bào viêm có chứa tế bào T làm tăng nồng độ TNF trong các tổn thương vảy nến so với các nồng độ khác ở những vùng da không liên quan. Etanercept là chất ức chế cạnh tranh của TNF bằng cách gắn kết với các thụ thể bề mặt tế bào của nó và do đó ức chế hoạt động sinh học của TNF. TNF và lymphotoxin là các cytokine tiền viêm gắn kết vào hai thụ thể chủ yếu trên bề mặt là thụ thể TNF 55 kilodalton (p55) và 75 – kilodalton (p75). Cả hai tồn tại trong tự nhiên ở thể gắn kết với màng và thể hòa tan. Các thụ thể TNF dạng hòa tan được cho là có vai trò điều hòa hoạt động sinh học của TNF.
TNF và lymphotoxin tồn tại chủ yếu như các đồng tam phân (homotrimers) với hoạt tính sinh học phụ thuộc vào mối liên kết chéo của các thụ thể TNF ở bề mặt tế bào. Các thụ thể nhị phân dạng hòa tan như etanercept thì có hấp lực với TNF cao hơn các thụ thể đơn phân và được xem là có nhiều tiềm năng ức chế cạnh tranh hơn đối với sự gắn kết của TNF vào các thụ thể tế bào của chúng. Hơn nữa, việc sử dụng một vùng Fc globulin miễn dịch như là yếu tố hợp nhất trong cấu trúc của một thụ thể nhị phân làm cho thời gian bán hủy trong huyết thanh dài hơn.
Cơ chế tác động
Nhiều khớp bệnh trong viêm khớp dạng thấp, viêm cứng khớp đốt sống và bệnh da trong mảng vảy nến (plaque psoriasis) được hoạt hóa bởi các phân tử tiền viêm được liên kết với một hệ thống kiểm soát bởi TNF. Cơ chế tác động của etanercept được cho là ức chế cạnh tranh không cho TNF gắn kết vào các thụ thể TNF ở màng tế bào (TNFR), ngăn ngừa đáp ứng tế bào trung gian TNF bằng cách bất hoạt TNF về mặt sinh học. Etanercept có thể cũng điều chỉnh các đáp ứng sinh học được kiểm soát bởi các dòng phân tử bổ sung (ví dụ: cytokines, các phân tử kết dính, hoặc men tiêu protein) được phát sinh hay điều khiển bởi TNF.
Các thử nghiệm lâm sàng
Phần này trình bày các dữ liệu từ 4 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trong viêm khớp dạng thấp, 1 nghiên cứu trong viêm đa khớp người trẻ do bệnh viêm khớp không rõ nguyên nhân, 1 nghiên cứu trong viêm khớp vảy nến, 1 nghiên cứu trong viêm cứng khớp đốt sống và 3 nghiên cứu trong vảy nến mảng.
Viêm khớp dạng thấp
Hiệu quả của ENBREL được đánh giá trong nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, so sánh với giả dược. Nghiên cứu đánh giá 234 bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp tiến triển đã từng thất bại với ít nhất một nhưng không nhiều hơn 4 thuốc điều trị chống thấp khớp loại biến đổi (DMARD). Liều dùng của ENBREL 10mg hoặc 25mg hoặc giả dược được tiêm dưới da 2 lần/tuần trong 6 tháng liên tục. Kết quả của thử nghiệm so sánh này được thể hiện theo phần trăm cải thiện bệnh viêm khớp dạng thấp theo tiêu chuẩn đáp ứng của Đại học khớp học của Mỹ (ACR).
Đáp ứng theo ACR 20 và 50 ở những bệnh nhân điều trị với ENBREL cao hơn ở tháng thứ 3 và thứ 6 như trong bảng dưới đây:
Đáp ứngĐáp ứng ACR Giả dược (n = 80)ENBRELa (n = 78)
(% bệnh nhân)
ACR 20
Tháng thứ 323%62%bTháng thứ 611%59%bACR 50
Tháng thứ 38%41%bTháng thứ 65%40%b
a: 25 mg ENBREL tiêm dưới da 2 lần/tuần
b: p < 0.01, ENBREL so với giả dược
Khoảng 15% đối tượng điều trị với ENBREL có đáp ứng ACR 70 vào tháng thứ 3 và tháng thứ 6 so với chỉ có dưới 5% số đối tượng trong nhóm giả dược. Trong số các bệnh nhân điều trị với ENBREL, đáp ứng lâm sàng thường thể hiện trong vòng 1 đến 2 tuần sau khi bắt đầu điều trị và gần như luôn luôn xảy ra vào tháng thứ 3. Đã ghi nhận đáp ứng liên quan đến liều; kết quả với liều 10 mg là trung gian giữa giả dược và liều 25 mg. ENBREL tốt hơn đáng kể so với giả dược trong mọi thành phần của tiêu chuẩn ACR cũng như trong những kết quả đo lường độ tiến triển của bệnh nhân viêm khớp dạng thấp khác không nằm trong tiêu chuẩn đáp ứng ACR như là bị cứng khớp vào buổi sáng. Một bảng câu hỏi đánh giá sức khỏe (HAQ) được thực hiện sau mỗi 3 tháng trong suốt thử nghiệm, bao gồm mất chức năng, sức lực, sức khỏe tâm thần, tình trạng sức khỏe tổng quát, và các phân vùng sức khỏe liên quan đến viêm khớp. Tất cả các phân vùng của bảng câu hỏi này đều cải thiện ở những bệnh nhân điều trị với ENBREL so sánh với các nhóm chứng vào tháng thứ 3 và thứ 6.
Sau khi ngưng ENBREL, thường thì các triệu chứng của viêm khớp xuất hiện trở lại trong vòng 1 tháng. Điều trị trở lại với ENBREL sau khi ngưng thuốc đến 24 tháng cho kết quả đáp ứng cùng cường độ với những bệnh nhân được điều trị với ENBREL liên tục dựa trên kết quả của những nghiên cứu mở. Các đáp ứng ổn định và tiếp diễn đến 48 tháng trong các nghiên cứu điều trị mở kéo dài với ENBREL liên tục; chưa có các kinh nghiệm dài hạn hơn.
Hiệu quả của ENBREL được so sánh với methotrexate trong nhiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát chủ động thứ ba, với đánh giá X quang mù được coi như mục tiêu chủ yếu trên 632 bệnh nhân trưởng thành với viêm khớp dạng thấp tiến triển (thời gian < 3 năm) chưa từng được điều trị với methotrexate. ENBREL liều 10mg hoặc 25mg được tiêm dưới da 2 lần/tuần đến 24 tháng. Liều dùng methotrexate được tăng từ 7.5mg/tuần đến tối đa là 20mg/tuần trong 8 tuần đầu của nghiên cứu và tiếp tục cho đến tháng 24. Cải thiện lâm sàng bao gồm sự khởi phát tác động trong 2 tuần với ENBREL 25mg tương đương với kết quả trong 2 thử nghiệm trước, và được duy trì cho đến 24 tháng. Khởi đầu, bệnh nhân có mức độ mất chức năng vừa phải, với điểm số HAQ trung bình từ 1.4 đến 1.5. Điều trị với ENBREL 25mg có cải thiện quan trọng vào tháng thứ 12 với khoảng 44% bệnh nhân đạt được điểm số HAQ bình thường (ít hơn 0.5). Lợi ích này được duy trì trong năm thứ 2 của nghiên cứu này.
Trong nghiên cứu này tổn thương cấu trúc khớp được đánh giá bằng X quang và thể hiện như thay đổi trong TSS (Total Sharp Score) và các thành phần của nó, điểm số bào mòn và điểm số thu hẹp khoảng cách giữa khớp (JSN). Hình ảnh X quang của bàn tay/cổ tay và bàn chân được xem ở thời điểm bắt đầu và tháng thứ 6, 12, và 24. ENBREL liều 10 mg có ít tác động trên sử hủy hoại cấu trúc hơn là liều 25 mg. ENBREL liều 25 mg tốt hơn đáng kể so với methotrexate về điểm số bào mòn ở cả tháng 12 và 24. Sự khác biệt trong TSS và JSN không đáng kể về mặt thống kê giữa methotrexate và ENBREL 25 mg.
Trong một nghiên cứu khác so sánh với hoạt chất, mù đôi và ngẫu nhiên, hiệu quả lâm sàng, độ an toàn và tiến triển x quang ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp chỉ được điều trị với ENBREL (25mg 2 lần/ngày), với riêng methotrexate (7,5 đến 20 mg mỗi tuần, liều trung bình là 20 mg), và kết hợp của ENBREL với methotrexate bắt đầu dùng cùng lúc được so sánh trên 682 bệnh nhân trưởng thành viêm khớp dạng thấp tiến triển từ 6 tháng đến 20 năm (trung bình là 5 năm) là những đối tượng có đáp ứng kém hơn với ít nhất 1 thuốc điều trị chống thấp khớp loại biến đổi (DMARD) so với methotrexate.
Các bệnh nhân trong nhóm trị liệu kết hợp ENBREL với methotrexate có đáp ứng ACR 20, ACR 50, ACR 70 cao hơn đáng kể và các điểm số cải thiện DAS và HAD ở cả hai thời điểm tuần thứ 24 và tuần thứ 52 cao hơn những bệnh nhân trong hai nhóm trị liệu đơn (kết quả thể hiện ở bảng bên dưới). Ưu điểm đáng kể của trị liệu kết kợp ENBREL với methotrexate so với trị liệu đơn thuần với ENBREL hoặc methotrexate cũng thể hiện sau 24 tháng.
Hiệu quả lâm sàng vào tháng thứ 12 so sánh ENBREL với methotrexate, so sánh ENBREL kết hợp với methotrexate trên những bệnh nhân viêm khớp từ 6 tháng đến 20 năm
Điểm kết thúcMethotrexate (n = 228)ENBREL (n = 223)ENBREL + Methotrexate (n = 231)Các đáp ứng ACRa
ACR 2058.8%65.5%74.5%t, ưACR 5036.4%43.0%63.2%t, ưACR 7016.7%22.0%39.8%t, ưDAS
Điểm số giai đoạn bắt đầub5.55.75.5Điểm số tuần thứ 52b3.03.02.3t, ưThuyên giảmc14%18%37%t, ưHAQ
Giai đoạn cơ bản1.71.71.8Tuần thứ 521.11.00.8t, ư
a: Những bệnh nhân chưa hoàn tất đủ 12 tháng nghiên cứu thì được xem như là không đáp ứng
b: Trung bình các điểm số đánh giá sự tiến triển bệnh (DAS)
c: Thuyên giảm được xác định với < 1.6
Các giá trị p so sánh theo cặp: t = p < 0.05 trong so sánh ENBREL + methotrexate với methotrexate và ư = P < 0.05 trong so sánh ENBREL + methotrexat so với ENBREL
Tiển triển X quang ở nhóm ENBREL vào tháng thứ 12 ít hơn đáng kể so với nhóm methotrexat trong khi sự kết hợp có hiệu quả tốt hơn đáng kể so với đơn trị liệu trong việc làm chậm diễn tiến X quang
Các giá trị p của so sánh theo cặp: * = p < 0.0.5 trong so sánh ENBREL với methotrexat, t = p < 0 .05 cho so sánh ENBREL + methotrexat với methotrexate và ư = P < 0.05 cho so sánh ENBREL + methotrexat so với ENBREL
Ưu điểm nổi bật của ENBREL trong kết hợp với methotrexate so sánh với ENBREL đơn trị và methotrexate đơn trị cũng quan sát được sau 24 tháng. Tương tự, hiệu quả nổi bật của ENBREL đơn trị so với trị liệu đơn với methotrexate cũng được thấy sau 24 tháng.
Trong phân tích trên tất cả các bệnh nhân bỏ nghiên cứu vì bất cứ lí do nào được xem như có tiến triển, phần trăm bệnh nhân không có tiến triển (thay đổi TSS ≤ 0.5) sau 24 tháng ở nhóm ENBREL kết hợp với methotrexate thì cao hơn so với nhóm đơn trị ENBREL và methotrexate (62%, 50% và 36% theo thứ tự, p < 0.05). Sự khác biệt giữa ENBREL đơn trị và methotrexate đơn trị cũng đáng kể (P < 0.0.5). Trong số những bệnh nhân đã hoàn tất 24 tháng trị liệu của nghiên cứu, tỉ lệ không tiến triển là 78% và 61% theo thứ tự.
Liều một lần/tuần
Độ an toàn và hiệu quả của ENBREL 50mg (hai mũi tiêm 25 mg dưới da) tiêm một lần/tuần được đánh giá trong một nghiên cứu mù đôi, so sánh với giả dược trên 420 bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp. Trong nghiên cứu này, 53 bệnh nhân được cho dùng giả dược, 214 bệnh nhân được tiêm 50mg ENBREL một lần/tuần và 153 bệnh nhân được tiêm 25mg ENBREL hai lần/tuần. Độ an toàn và hiệu quả của 2 chế độ điều trị với ENBREL được so sánh vào tuần thứ 8 về các dấu hiệu và triệu chứng của viêm khớp dạng thấp; dữ liệu vào tuần thứ 16 không cho thấy tính khác biệt giữa 2 chế độ điều trị.
Viêm đa khớp ở người trẻ do bệnh viêm khớp không rõ nguyên nhân
Hiệu quả và tính an toàn của ENBREL được đánh giá trong một nghiên cứu hai phần trên 69 bệnh nhi bị viêm đa khớp ở người trẻ do bệnh viêm khớp không rõ nguyên nhân trên các bệnh nhân có những khởi phát bệnh khác nhau. Bệnh nhân tuổi từ 4 đến 17 với nhiều năm mắc viêm đa khớp ở người trẻ do bệnh viêm khớp không rõ nguyên nhân tiến triển ở mức độ từ vừa đến nặng, không đáp ứng hoặc không dung nạp với methotrexate được đưa vào nghiên cứu; các bệnh nhân vẫn đang được điều trị với liều ổn định của thuốc kháng viêm không steroid và/hoặc prednisone (< 0.2mg/kg/ngày hoặc tối đa 10mg). Trong phần 1, tất cả các bệnh nhân được tiêm ENBREL dưới da 0.4 mg/kg (tối đa 25 mg mỗi liều) hai lần/tuần. Trong phần 2, các bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng vào ngày 90 được tiếp tục điều trị ngẫu nhiên hoặc với ENBREL hoặc với giả dược trong 4 tháng và được theo dõi sự tăng trở lại của bệnh. Các đáp ứng được đo với JRA. Định nghĩa về cải thiện (DOI), được xem là khi ≥ 30% cải thiện trong ít nhất 3 trên 6 và ≥ 30% xấu đi trong ít hơn 1 trong số 6 tiêu chuẩn cốt lõi của JRA, bao gồm số khớp bệnh tiến triển, cử động hạn chế, đánh giá toàn bộ của bác sỹ và bệnh nhân/cha mẹ bệnh nhân, đánh giá về chức năng, và tốc độ máu lắng (ESR). Bệnh tăng trở lại được xác định khi ≥ 30% xấu đi trong 3 trên 6 điểm số JRA và có tối thiểu 2 khớp bị bệnh tiến triển.
Trong phần 1 của nghiên cứu, 51 trên 69 (74%) bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng và tiếp tục vào phần 2. Trong phần 2, 6 trên 25 bệnh nhân tiếp tục điều trị với ENBREL có bị bệnh tăng trở lại so với 20 trên 26 (77%) bệnh nhân được điều trị với giả dược (p = 0.007). Từ khi bắt đầu giai đoạn 2, thời gian trung bình đến khi tăng trở lại là ≥ 116 ngày cho các bệnh nhân điều trị với ENBREL và 28 ngày cho các bệnh nhân điều trị với giả dược. Trong số các bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng vào ngày 90 và thụ thể vào giai đoạn 2 của nghiên cứu, một số bệnh nhân trong nhóm duy trì điều trị với ENBREL tiếp tục có tiến triển từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 7 trong khi những bệnh nhân điều trị với giả dược thì không tiến triển.
Chưa thực hiện nghiên cứu trên viêm đa khớp người trẻ do bệnh viêm khớp không rõ nguyên nhân để đánh giá hiệu quả của điều trị tiếp tục với ENBREL trên những bệnh nhân không đáp ứng trong vòng 3 tháng với khởi đầu trị liệu ENBREL hoặc để đánh giá sự kết hợp ENBREL với methotrexate.
Bệnh nhân trưởng thành bị viêm khớp vảy nến
Hiệu quả của ENBREL được đánh giá trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi so sánh với giả dược trên 205 bệnh nhân viêm khớp vảy nến. Độ tuổi của bệnh nhân từ 18 đến 70 và bị viêm khớp vảy nến tiến triển (≥ 3 sưng khớp và ≥ 3 đau khớp) trong ít nhất một của các dạng sau: (1) liên quan đến khớp liên đốt xa (DIP); (2) viêm đa khớp (không có nốt thấp và vảy nến hiện diện); (3) viêm đa khớp; (4) viêm khớp vảy nến không đối xứng; hoặc (5) cứng khớp giống viên cột sống. Các bệnh nhân cũng có vảy nến với sang thương đích đúng chuẩn có đường kính ≥ 2 cm. Các bệnh nhân đã được điều trị trước đó với thuốc kháng viêm không steroids (86%), DMARDs (80%), và corticosteroid (24%). Các bệnh nhân được điều trị trước đó không lâu với methotrexate (ổn định ≥ 2 tháng) có thể tiếp tục với liều ổn định ≤ 25 mg methotrexate/tuần. Các liều của 25 mg ENBREL (dựa trên nghiên cứu xác định liều ở những bệnh nhân bị viêm khớp) hay giả dược được cho tiêm dưới da 2 lần/tuần trong 6 tháng.
Kết quả được thể hiện qua phần trăm bệnh nhân có đáp ứng ACR 20, 50, và 70 và phần trăm cải thiện theo tiêu chuẩn đáp ứng Viêm khớp vảy nến (PsARC). Kết quả được tóm tắt trong bảng sau
Đáp ứng của bệnh nhân với viêm khớp vảy nến trong thử nghiệm so sánh với giả dược
Đáp ứng viêm khớp vảy nếnPhần trăm bệnh nhân
Giả dược n = 104ENBRELa n = 101ACR 20
Tháng thứ 31559bTháng thứ 61350bACR 50
Tháng thứ 3438bTháng thứ 6437bACR 70
Tháng thứ 3011bTháng thứ 619cPsARC
Tháng thứ 33172bTháng thứ 62370b
a: 25mg ENBREL tiêm dưới da 2 lần/tuần
b: p < 0.001, ENBREL so với giả dược
c: p < 0,01, ENBREL so với giả dược
Trong số các bệnh nhân viêm khớp vảy nến được điều trị với ENBREL, các đáp ứng lâm sàng rõ rệt vào thời điểm khám đầu tiên (4 tuần) và được duy trì suốt 6 tháng điều trị. ENBREL tốt hơn đáng kể so với giả dược trong mọi chỉ số đo lường độ tiến triển của bệnh (p < 0.001), và có đáp ứng tương tự với có hoặc không điều trị đồng thời với methotrexate. Chất lượng sống của bệnh nhân viêm khớp vảy nến được đánh giá tại mọi thời điểm với chỉ số mất chức năng (disability index) của HAQ. Điểm số theo chỉ số mất chức năng của bệnh nhân bị viêm khớp vảy nến được điều trị với ENBREL cải thiện rõ rệt vào mọi thời điểm, so với giả dược (p < 0.001). Không có đủ bằng chứng về hiệu quả của ENBREL trên bệnh nhân bệnh khớp do vảy nến giống như viêm cứng khớp đốt sống do số lượng nhỏ các bệnh nhân trong nghiên cứu.
Chưa có nghiên cứu nào được thực hiện trên những bệnh nhân bị viêm khớp vảy nến với liều 50mg 1 lần/tuần. Bằng chứng hiệu quả của chế độ liều 1 lần/tuần trên mẫu bệnh nhân này dựa trên những dữ liệu của nghiên cứu trên bệnh nhân viêm cứng khớp đốt sống.
Bệnh nhân trưởng thành bị viêm cứng khớp đốt sống
Hiệu quả của ENBREL trong viêm cứng khớp đốt sống được đánh giá trong 3 nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi so sánh liều 25 mg ENBREL/tuần với giả dược. Tổng số 401 bệnh nhân được chọn, trong đó có 203 được điều trị với ENBREL. Số bệnh nhân đông nhất của 3 thử nghiệm ( n = 277) có độ tuổi từ 18 đến 70 và bị viêm cứng khớp đốt sống tiến triển được xác định với điểm số trên thang điểm nhìn (VAS) ≥ 30 cho trung bình thời gian và cường độ cứng vào buổi sáng cộng với điểm số VAS ≥ 30 cho ít nhất 2 trên 3 tham số sau đánh giá toàn bộ của bệnh nhân; trung bình của các giá trị VAS cho đau lưng vào ban đêm và đau lưng toàn phần; trung bình của 10 câu hỏi về chỉ số chức năng trong viêm cứng khớp đốt sống của Bath (BASFI). Những bệnh nhân đang dùng DMARDs, kháng viêm không có steroid hoặc corticosteroid có thể tiếp tục sử dụng liều không đổi. Các bệnh nhân bị cứng khớp toàn phần không được nhận vào nghiên cứu. Các liều dùng của 25mg ENBREL (dựa trên các nghiên cứu xác định liều ở những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp) hoặc giả dược được tiêm dưới da 2 lần/tuần trong 6 tháng cho 138 bệnh nhân.
Xác định hiệu quả chủ yếu (ASAS 20) là phải có ≥ 20% cải thiện trong ít nhất 3 trên 4 đánh giá của những vùng viêm cứng khớp đốt sống (ASAS) (đánh giá toàn bộ bệnh nhân, đau lưng, BASFI, và viêm) và không có sự xấu đi trong những vùng còn lại. Các đáp ứng ASAS 50 và 70 được dùng với cùng tiêu chuẩn với cải thiện 50% hoặc 70% theo thứ tự.
So sánh với giả dược, điều trị với ENBREL cho cải thiện đáng kể trong ASAS 20, ASAS 50 và ASAS 70 như xuất hiện sớm vào 2 tuần sau khi bắt đầu điều trị.
Các đáp ứng của bệnh nhân bị viêm cứng khớp đốt sống trong 1 nghiên cứu so sánh với giả dược
Đáp ứng của viêm cứng khớp đốt sốngPhần trăm bệnh nhân
Giả dược n = 139ENBREL n = 138ASAS 20
2 tuần2246a3 tháng2760a6 tháng2358aASAS 50
2 tuần724a3 tháng1345a6 tháng1042aASAS 70
2 tuần212b3 tháng729b6 tháng528b
a: p < 0.001, ENBREL so với giả dược
b: p = 0.002, ENBREL so với giả dược
Trong số các bệnh nhân viêm cứng khớp đốt sống được điều trị với ENBREL, các đáp ứng lâm sàng rõ vào thời điểm thăm bệnh lần đầu tiên (sau 2 tuần) và duy trì suốt 6 tháng điều trị. Các đáp ứng tương tự nhau ở những bệnh nhân được điều trị cùng lúc hay không ở giai đoạn ban đầu.
Các kết quả tương tự thu được ở hai thử nghiệm nhỏ hơn trên viên cứng khớp đốt sống.
Trong nghiên cứu thứ 4, hiệu quả và độ an toàn của ENBREL 50 mg (hai mũi tiêm dưới da 25 mg) tiêm một lần/tuần so với tiêm ENBREL 25 mg 2 lần/tuần được đánh giá trong một nghiên cứu mù đôi so sánh với giả dược trên 356 bệnh nhân mắc viêm khớp đốt sống. Độ an toàn và hiệu quả của 50 mg một lần/tuần và 25 mg hai lần/tuần tương đương nhau.
Bệnh nhân trưởng thành bị mảng vảy nến
ENBREL được đề nghị dùng cho các bệnh nhân như trong phần Chỉ định. Các bệnh nhân “không đáp ứng với” mẫu dân số mục tiêu được coi như đáp ứng không nay đủ (PASI < 50 hay PGA dưới mức tốt), hoặc tình trạng bệnh nặng hơn trong khi điều trị, và những bệnh nhân được điều trị đủ liều trong thời gian đủ dài để đánh giá đáp ứng với ít nhất một trong ba trị liệu hệ thống chính.
Hiệu quả của ENBREL so với các trị liệu hệ thống khác ở những bệnh nhân vảy nến từ nhẹ đến nặng (có đáp ứng với các trị liệu hệ thống khác) không được đánh giá trong các nghiên cứu so sánh trực tiếp ENBREL với các trị liệu hệ thống khác. Thay vào đó, hiệu quả và độ an toàn của ENBREL được đánh giá trong 3 nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi so sánh với giả dược. Tiêu chuẩn chính đánh giá hiệu quả trong cả 3 nghiên cứu là tỉ lệ bệnh nhân trong mỗi nhóm điều trị đạt được PASI 75 (nghĩa là có ít nhất 75% cải thiện trong vùng vảy nến và chỉ số nghiêm trọng so với ban đầu) sau 12 tuần.
Nghiên cứu 1 là một nghiên cứu giai đoạn 2 trên những bệnh nhân bị bệnh tiến triển nhưng vảy nến ổn định về mặt lâm sàng chiếm ≥ 10% diện tích cơ thể và bệnh nhân ≥ 18 tuổi. Một trăm mười hai bệnh nhân được cho điều trị ngẫu nhiên với ENBREL liều 25 mg (n = 57) hoặc giả dược (n = 55) hai lần/tuần trong 24 tuần.
Nghiên cứu 2 đánh giá 652 bệnh nhân bị vảy nến mãn tính dùng cùng tiêu chuẩn chọn bệnh như nghiên cứu 1 cộng với có ít nhất vùng vảy nến và chỉ số trầm trọng (PASI) là 10 lúc chọn bệnh. ENBREL được dùng với liều 25 mg một lần/tuần, 25 mg 2 lần/tuần hoặc 50 mg hai lần/tuần trong 6 tháng liên tục. Trong 12 tuần đầu của giai đoạn điều trị mù đôi, những bệnh nhân điều trị với giả dược hoặc một trong 3 liều ENBREL kể trên. Sau 12 tuần điều trị, những bệnh nhân trong nhóm giả dược bắt đầu được điều trị với ENBREL (25 mg hai lần/tuần); những bệnh nhân trong nhóm điều trị chủ động được tiếp tục đến tuần thứ 24 với liều mà họ đã được cho sử dụng khi chọn ngẫu nhiên.
Nghiên cứu 3 đánh giá 583 bệnh nhân và có cùng tiêu chuẩn kết luận như nghiên cứu 2. Các bệnh nhân trong nghiên cứu này được điều trị với liều 25 mg hoặc 50 mg, hoặc giả dược hai lần/tuần trong 12 tuần và sau đó tất cả bệnh nhân điều trị với 25 mg ENBREL hai lần/tuần trong 24 tuần bổ sung.
Trong nghiên cứu 1, nhóm điều trị với ENBREL có tỉ lệ bệnh nhân với đáp ứng PASI 75 cao hơn đáng kể vào tuần 12 (30%) so sánh với nhóm điều trị bằng giả dược (2%) (p < 0.0001). Vào tuần 24, 56% bệnh nhân trong nhóm ENBREL đạt PASI 75 so với 5% trong nhóm giả dược. Kết quả chính của các nghiên cứu 2 và 3 được thể hiện bên dưới.
Các đáp ứng của bệnh nhân vảy nến trong nghiên cứu 2 và 3
Nghiên cứu 2
Nghiên cứu 3
Giả dược25 mg BIW
50 mg BIW
Giả dược25 mg BIW50 mg BIWĐáp ứngn = 166n = 162n = 162n = 164n = 164n = 193n = 193n = 196
Tuần 12Tuần 12Tuần 24Tuần 12Tuần 24Tuần 12Tuần 12Tuần 12PASI 50%1458a7074a77964a77aPASI 75%434a4449a59334a49aDGGAb % hết hoặc hầu như hết534a3949a55439a57a
P ≤ 0.0001 so với giả dược
a. Không thực hiện so sánh thống kê với giả dược vào tuần 24 trong nghiên cứu 2 vì nhóm giả dược ban đầu bắt đầu điều trị với ENBREL 25 mg BIW từ tuần 13 đến tuần 24.
b. Đánh giá toàn thể bằng thống kê của các Bác sỹ da liễu. Được định nghĩa là hết hay gần như hết, đánh giá từ 0 hoặc 1 trên thang điểm từ 0 đến 5.
Trong số những bệnh nhân bị mảng vảy nến được điều trị với ENBREL, đáp ứng đáng kể rõ nét so với giả dược vào thời điểm thăm bệnh lần đầu (2 tuần) và được duy trì trong 24 tuần điều trị.
Nghiên cứu 2 cũng có một giai đoạn ngưng thuốc trong đó các bệnh nhân đã đạt cải thiện PASI ít nhất 50% vào tuần 24 thì ngưng điều trị. Quan sát những bệnh nhân này về hiện tượng dội ngược (PASI ≥ 150% so với ban đầu) và thời gian trước khi xảy ra tái phát (được định nghĩa như là giảm đi ít nhất phân nửa sự cải thiện đã đạt được trong giữa khoảng thời gian từ lúc bắt đầu đến tuần thứ 24). Trong giai đoạn ngưng thuốc, các triệu chứng vảy nến dần dần xuất hiện trở lại với thời gian trung bình trước khi tái phát là 3 tháng. Không quan sát thấy hiện tượng dội ngược hoặc các phản ứng phụ trầm trọng do vảy nến. Có bằng chứng cho thấy lợi ích của việc tái trị liệu với ENBREL ở những bệnh nhân có đáp ứng ban đầu với điều trị.
Trong nghiên cứu 3, đa số bệnh nhân (77%) được chọn ngẫu nhiên cho bắt đầu trị liệu với 50 mg hai lần/tuần và giảm liều ENBREL vào tuần thứ 12 còn 25 mg hai lần/tuần vẫn duy trì được đáp ứng PASI 75 đến tuần thứ 36. Những bệnh nhân được cho dùng với liều 25 mg hai lần/tuần trong suốt nghiên cứu, đáp ứng PASI 75 tiếp tục cải thiện trong khoảng thời gian giữa tuần 12 và tuần 36.
Các kháng thể với ENBREL
Các kháng thể với ENBREL, tất cả đều không trung hòa, được phát hiện trong 4 trên 96 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp rheumatoid arthritis được điều trị với ENBREL ở liều 25 mg hai lần/tuần đến 3 tháng trong một nghiên cứu so sánh với giả dược. Trong một nghiên cứu có kiểm soát so sánh với thuốc, 11 (2.8%) trên 400 bệnh nhân điều trị với etanercept có ít nhất một kết quả dương tính nhưng không có bệnh nhân nào dương tính với test kháng thể trung tính. Những kết quả từ các bệnh nhân JCA thì tương tự với những kết quả thấy ở những bệnh nhân trưởng thành bị viêm khớp dạng thấp được điều trị với ENBREL. Trong số 98 bệnh nhân viêm khớp vảy nến đã được test, không có ai phát triển kháng thể với ENBREL vào tuần thứ 24. trong số 480 bệnh nhân viêm cứng khớp đốt sống được điều trị với ENBREL, có 5 bệnh nhân được báo cáo có kháng thể với ENBREL, và không có kháng thể nào trung tính. Trong những nghiên cứu mù đôi đến 6 tháng bị mảng vảy nến, có khoảng 1% trên 1,084 bệnh nhân có phát triển kháng thể với ENBREL, không có kháng thể nào trung tính.
Dù các kết quả không loại trừ khả năng phát sinh tác động có liên quan đến lâm sàng, không thấy có mối liên hệ rõ rệt nào giữa sự phát sinh kháng thể tới sự đáp ứng lâm sàng hoặc phản ứng ngược.
Dược động học
Các nồng độ etanercept trong huyết thanh được xác định bằng phương pháp ELISA có thể phát hiện các sản phẩm thoái biến tương tác với ELISA cũng như là hợp chất ban đầu.
Etanercept được hấp thu chậm từ nơi tiêm, đạt đến nồng độ cực đại vào khoảng 48 giờ sau khi tiêm liều đơn. Độ khả dụng tuyệt đối là 76%. Với liều hai lần/tuần dự kiến nồng độ ổn định cao gấp hai nồng độ ổn định tối đa trung bình trong huyết thanh quan sát được ở những đối tượng khỏe mạnh tình nguyện là 1.65 ± 0.66 mcg/ml, và diện tích dưới đường cong là 235 ± 96.6 mcg*hr/ml. Tỉ lệ liều chưa được tính toán một cách chính thức nhưng không có sự bão hòa rõ rệt của độ thanh thải trong phạm vi liều sử dụng.
Đường nồng độ theo thời gian của etanercept được thể hiện theo đường mũ đôi (biexponental). Thể tích trung tâm phân phối của etanercept là 7.6 L, trong khi thể tích phân phối ở giai đoạn ổn định là 10.4 L. Etanercept được thanh thải chậm khỏi cơ thể. Thời gian bán hủy dài, khoảng 70 giờ. Độ thanh thải vào khoảng 0.066 L/giờ ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, hơi thấp hơn giá trị 0.11 L/giờ quan sát được ở những đối tượng tình nguyện khỏe mạnh. Thêm vào đó, dược động học của ENBREL ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, viêm cứng khớp đốt sống và mảng vảy nến là tương đương nhau.
Nồng độ trung bình trong huyết thanh ở giai đoạn ổn định trên những bệnh nhân dược điều trị RA là Cmax của 2.4 mg/l so với 2.6 mg/l, Cmax của 1.2 mg/l so với 1.4 mg/l và AUC một phần của 297 mgh/l so vơi 316 mgh/l cho 50 mg ENBREL tiêm một lần/tuần (n = 21) so với 25 mg ENBREL tiêm hai lần/tuần (n = 16), theo thứ tự.
Phân tích dược động học trong một mẫu dân số bệnh nhân bị viêm cứng khớp đốt sống điều trị với etanercept, AUCs ở tình trạng ổn định là 466 mcg*giờ/mL và 474 mcg*giờ/mL cho 50 mg ENBREL tiêm một lần/tuần (n = 154) và 25 mg tiêm hai lần/tuần (n = 148), theo thứ tự.
Mặc dù có sự loại thải của chất phóng xạ trong nước tiểu sau khi tiêm etanercept có gắn chất phóng xạ đánh dấu vào bệnh nhân và những người tình nguyện, không phát hiện thấy tăng nồng độ etanercept ở những bệnh nhân bị suy thận hay suy gan cấp. Không cần thay đổi liều cho những người bị suy thận hay suy gan. Không co sự khác biệt về dược động học giữa hai phái nam và nữ.
Methotrexate không có tác động trên dược động học của etanercept. Tác động của ENBREL trên dược động học người của methotrexate chưa được nghiên cứu.
Bệnh nhân lớn tuổi
Tác động của tuổi tác đã được nghiên cứu trong phân tích dược động học của các nồng độ etanercept huyết thanh. Độ thanh thải và thể tích ước lượng ở những bệnh nhân tuổi từ 65 đến 87 thì tương đương với những kết quả ở những bệnh nhân dưới 65 tuổi.
Bệnh nhân bị viêm đa khớp người trẻ do bệnh viêm khớp không rõ nguyên nhân
Trong một thử nghiệm thực hiện trên các bệnh nhân bị viêm đa khớp người trẻ do bệnh viêm khớp không rõ nguyên nhân được điều trị với ENBREL, 69 bệnh nhân (tuổi từ 4 đến 17) được cho dùng 0.4 mg ENBREL/kg/hai lần/tuần trong 3 tháng. Nồng độ trong huyết thanh tương đương với ở người trưởng thành bị viêm khớp dạng thấp. Những bệnh nhân trẻ nhất (4 tuổi) có độ thanh thải giảm (gia tăng sự thanh thải khi bình thường hóa theo trọng lượng) so với những trẻ lớn hơn (12 tuổi) và người trưởng thành. Sự phỏng định về liều lượng cho thấy là trong khi trẻ lớn (10 – 17 tuổi) cho nồng độ trong huyết thanh gần với mức người lớn, thì trẻ nhỏ sẽ có nồng độ thấp hơn đáng kể.
An toàn tiền lâm sàng
Trong những nghiên cứu về độc tính với ENBREL, không có bằng chứng về độc tính trên cơ quan làm bia hoặc hạn chế về liều lượng. Trong một số nghiên cứu in vitro và in vitro ENBREL được xem như là không độc tính về mặt di truyền. Các nghiên cứu về tính sinh ung thư, và đánh giá chuẩn về khả năng sinh sản và độc tính sau khi sinh chưa được thực hiện với ENBREL do sự phát sinh của kháng thể trung hòa trên loài gậm nhấm.
ENBREL không gây chết hay có những dấu hiệu rõ nét về ngộ độc ở chuột cống hoặc chuột nhắt sau khi tiêm dưới da liều đơn 2000 mg/kg hoặc tiêm tĩnh mạch một liều đơn 1000 mg/kg. ENBREL không gây ra hạn chế về liều hoặc độc tính trên các cơ quan làm bia trên khi sau khi chích dưới da 2 lần mỗi tuần trong 4-26 tuần liên tiếp với liều 15 mg/kg để có được nồng độ thuốc trong huyết thanh dựa trên AUC 27 lần cao hơn nồng độ đo trên người ở liều 25mg.
Không nên bắt đầu điều trị với ENBREL cho những bệnh nhân bị nhiễm trùng tiến triển bao gồm nhiễm trùng cấp hoặc nhiễm trùng tại chỗ.
Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng
Nhiễm trùng
Nhiễm trùng huyết và nhiễm trùng nghiêm trọng (tử vong, đe dọa tính mạng hoặc phải nhập viện hoặc truyền kháng sinh qua tĩnh mạch) đã được báo cáo khi sử dụng ENBREL (xem phần Tác dụng ngoại ý). Nhiều tác dụng phụ nghiêm trọng đã xảy ra với những bệnh nhân bị những bệnh tiềm ẩn phụ thêm vào viêm khớp dạng thấp có thể làm cho bệnh nhân có khuynh hướng bị nhiễm trùng. Những bệnh nhân bị nhiễm trùng mới khi đang điều trị với ENBREL nên được theo dõi cẩn thận. Nên ngưng thuốc ENBREL nếu bệnh nhân bị nhiễm trùng trầm trọng. Bác sỹ nên thận trọng khi xem xét khả năng điều trị ENBREL cho bệnh nhân có bệnh sử tái phát hoặc nhiễm trùng trầm trọng hoặc có bệnh tiềm ẩn có thể gia tăng nguy cơ nhiễm trùng cho bệnh nhân như là bệnh tiểu đường tiến triển hoặc kiểm soát kém.
Điều trị cùng lúc ENBREL và Anakinra
Điều trị cùng lúc ENBREL và Anakinra làm tăng nguy cơ nhiễm trùng nặng và giảm bạch cầu trung tính so sánh với chỉ điều trị với ENBREL. Sự kết hợp này chưa được chứng minh làm tăng lợi ích lâm sàng. Như vậy, sử dụng kết hợp ENBREL và Anakinra không được khuyến khích (xem phản tương tác với các thuốc khác và các dạng tương tác thuốc và hiệu quả không mong muốn).
Phản ứng dị ứng
Các phản ứng dị ứng kết hợp với ENBREL đã được báo cáo rộng rãi. Các phản ứng này bao gồm phù mạch và mề đay; các phản ứng trầm trọng đã xảy ra. Nếu có bất kỳ dị ứng nghiêm trọng hay sốc phản vệ, nên ngưng điều trị với ENBREL ngay lập tức và bắt đầu trị liệu thích hợp.
Ức chế miễn dịch
Có khả năng các trị liệu chống TNF, bao gồm ENBREL, ảnh hưởng tới sự bảo vệ của ký chủ chống lại sự nhiễm trùng và các bệnh ác tính bởi vì TNF làm trung gian cho phản ứng viêm và điều biến các đáp ứng miễn dịch tế bào. Đã ghi nhận các báo cáo về bệnh ác tính (bao gồm u ác tính ở vú và phổi và u hạch) trong giai đoạn sau khi đưa thuốc ra thị trường (xem phần Tác dụng ngoại ý). Trong một nghiên cứu trên 49 bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp được điều trị với ENBREL, không có bằng chứng về sự ức chế tăng cảm muộn, ức chế nồng độ globulin miễn dịch, hoặc biến đổi trong số lượng của hiệu quả hoặc dân số tế bào.
Về phần được kiểm soát của các nghiên cứu lâm sàng về các chất đối kháng TNF, u hạch xuất hiện ở các bệnh nhân được điều trị với chất đối kháng TNF hơn là những bệnh nhân nhóm đối chứng. Tuy nhiên, tần suất xảy ra hiếm và quá trình theo dõi những bệnh nhân dùng giả dược ngắn hơn là những bệnh nhân điều trị với chất đối kháng TNF. Hơn nữa, ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp với tình trạng bệnh viêm kéo dài và tiến triển, có sự gia tăng nguy cơ căn bản mắc u hạch, điều này gây khó khăn cho việc ước lượng nguy cơ. Với kiến thức hiện có, nguy cơ tiềm năng phát triển u hạch hay các u ác tính khác ở bệnh nhân điều trị với chất đối kháng TNF không thể loại trừ.
Hai bệnh nhân viêm khớp người trẻ vô căn xuất hiện thủy đậu và các dấu hiệu, triệu chứng viêm màng não vô khuẩn đã lành bệnh không để lại di chứng. Nên tạm ngừng điều trị ENBREL chi những bệnh nhân phơi nhiễm nhiều với vi rút thủy đậu và nên được xem xét điều trị dự phòng với globulin miễn dịch chống bệnh thủy đậu (Varicella Zoster).
Chưa đánh giá được hiệu quả và độ an toàn của ENBREL ở những bệnh nhân bị ức chế miễn dịch hoặc nhiễm trùng cấp.
Tiêm chủng
Không nên tiêm vắc xin sống cùng lúc với điều trị ENBREL. Chưa có tài liệu về sự truyền bệnh thứ phát của tác nhân gây viêm nhiễm do tiêm vắc xin sống ở những bệnh nhân điều trị với ENBREL. Nếu có thể, những bệnh nhân trẻ vị viêm khớp vô căn nên được tiêm ngừa tối đa theo hướng dẫn tiêm phòng hiện nay trước khi bắt đầu trị liệu với ENBREL. Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, so sánh bởi giả dược trên bệnh nhân viêm khớp vảy nến, 184 bệnh nhân cũng được tiêm chủng với vắc xin đa giả chống pneumococcus vào tuần thứ 4. Trong nghiên cứu này, hầu hết bệnh nhân viêm khớp vảy nến được điều trị với ENBREL có khả năng tăng sự đáp ứng có hiệu quả của tế bào đối với vắc xin đa giả chống pneumocccus, nhưng định lượng thì hơi thấp hơn và một vài bệnh nhân lại có định lượng hai lần cao hơn so với những bệnh nhân không được điều trị với ENBREL. Ý nghĩa lâm sàng của hiện tượng này vẫn chưa được rõ.
Sự hình thành kháng thể tự miễn
Điều trị với ENBREL có thể hình thành kháng thể tự miễn (xem phần Tác dụng ngoại ý)
Các phản ứng huyết học
Đã có báo cáo về những trường hợp hiếm xảy ra giảm tế bào máu toàn phần và trường hợp rất hiếm bị thiếu máu giảm sản khi điều trị với ENBREL. Nên cẩn thận khi sử dụng ENBREL cho những bệnh nhân có tiền căn loạn sản máu. Nên khuyên tất cả mọi bệnh nhân được điều trị với ENBREL đi khám ngay khi có các triệu chứng của loạn sản máu hay nhiễm trùng (VD: sốt kéo dài, đau họng, bầm máu, chảy máu, xanh xao). Những bệnh nhân này cần được khám xét ngay, bao gồm đếm máu toàn phần: nếu có loạn sản máu, cần phải ngưng điều trị ENBREL.
Các rối loạn ở hệ thần kinh trung ương
Có rất hiếm báo cáo về rối loạn mất myelin ở hệ thần kinh trung ương ở những bệnh nhân điều trị với ENBREL (xem phần Tác dụng ngoại ý). Dù chưa thực hiện nghiên cứu lâm sàng đánh giá trị liệu với ENBREL ở những bệnh nhân bị đa xơ cứng, các nghiên cứu lâm sàng với các chất đối kháng TNF khác ở bệnh nhân đa xơ cứng cho thấy có làm tăng tiến triển bệnh. Nên thận trọng cân nhắc giữa nguy cơ và những lợi điểm bao gồm khảo sát thần kinh khi ra toa etanercept cho những bệnh nhân đã có hoặc mới khởi đầu mất myelin ở CNS hoặc những người được xem là có tăng nguy cơ phát triển bệnh mất myelin.
Trị liệu tổng hợp
Trong một nghiên cứu lâm sàng so sánh trên những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp kéo dài 2 năm, phối hợp ENBREL và methotrexate, không thấy những dấu hiệu kém an toàn nào, và mức độ an toàn của ENBREL khi dùng phối hợp với methotrexate cũng tương tự như trong nghiên cứu đơn trị với ENBREL hoặc với methotrexate. Những nghiên cứu dài hạn nhằm đánh giá độ an toàn của sự kết hợp vẫn đang tiếp diễn. Độ an toàn dài hạn của ENBREL khi phối hợp với các thuốc điều trị chống thấp khớp bằng cách biến đổi khác chưa được xác định.
Kết hợp ENBREL với các trị liệu hệ thống khác hoặc quang trị liệu (phototherapy) trong điều trị vảy nến chưa được nghiên cứu.
Suy thận và suy gan
Dựa trên các dữ liệu dược động học (xem phần Dược động học), không cần điều chỉnh liều cho những bệnh nhân bị suy thận hay suy gan; kinh nghiệm lâm sàng ở những bệnh nhân này còn ít.
Suy tim sung huyết tim
Nên thận trọng khi sử dụng ENBREL cho những bệnh nhân suy tim sung huyết (CHF). Đã có những báo cáo khi thuốc đã được đưa ra thị trường về tình trạng xấu đi của CHF, có và không có tác nhân làm cho bệnh trầm trọng hơn có thể nhận rõ, ở những bệnh nhân điều trị với ENBREL. Hai nghiên cứu lâm sàng lớn đánh giá sử dụng ENBREL trong điều trị CHF đã kết thúc sớm vì không có hiệu quả. Dù không có kết luận nhưng dữ liệu từ 1 trong 2 nghiên cứu trên cho thấy có khả năng làm xấu đi tình trạng CHF ở những bệnh nhân được chỉ định điều trị với ENBREL.
Bệnh u hạt Wegener’s
Một nghiên cứu so sánh với giả dược trong đó 89 bệnh nhân được điều trị với ENBREL bổ sung vào trị liệu chuẩn (gồm cyclophosphamide hoặc methotrexate, và glucocorticoids) trong thời gian điều trị trung bình 25 tháng, cho thấy ENBREL không có hiệu quả trong điều trị bệnh u hạt Wegener’s. Tỉ lệ u ác tính không phải ở da thuộc các kiểu khác nhau cao hơn đáng kể trong nhóm bệnh nhân điều trị với ENBREL so với nhóm chứng. Không nên dùng ENBREL trong điều trị u hạt Wegener’s.
Tác động trên khả năng lái xe và vận hành máy móc:
Chưa có nghiên cứu về tác động của thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy.
Lúc có thai và lúc nuôi con bú
Không nghiên cứu về ENBREL trên phụ nữ có thai. Các nghiên cứu về phát triển độc tính thực hiện trên chuột và thỏ không thấy có bằng chứng là etanercept gây hại cho phôi hoặc chuột sơ sinh. Chưa có các dữ liệu tiền lâm sàng về độc tính của etanercept chu sinh và sau khi sinh cũng như về tác động của etanercept trên khả năng sinh sản và hoạt động sinh sản nói chung. Do đó, không nên sử dụng ENBREL cho phụ nữ có thai và phụ nữ có khả năng mang thai nên được khuyến cáo không nên có thai trong khi đang trị liệu với ENBREL
Sử dụng ENBREL khi đang cho con bú
Chưa rõ là etanercept có được tiết vào sữa hay không. Vì các globulins miễn dịch cũng như nhiều thuốc khác có thể được tiết vào sữa nên quyết định hoặc là ngưng cho con bú sữa mẹ hoặc ngưng dùng thuốc khi đang cho con bú.
Tương tác thuốc
Trong các nghiên cứu lâm sàng, không thấy có tương tác khi dùng ENBREL với glucocorticoids, salicylates (ngoại trừ sulfasalazine), các thuốc kháng viêm không có steroid (NSAIDs), thuốc giảm đau hoặc methotrexate. Xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng để có thêm thông tin về vaccine.
Trong một nghiên cứu lâm sàng với các bệnh nhân được điều trị với những liều đã xác định của sulfasalazine, có bổ sung ENBREL, những bệnh nhân trong nhóm có số lượng bạch cầu trung bình giảm đáng kể về mặt thống kê so với nhóm điều trị đơn thuần bằng ENBREL hoặc sulfasalazine. Các dấu hiện lâm sàng của tương tác này vẫn chưa rõ.
Sử dụng đồng thời ENBREL và anakinra
Khi quan sát những bệnh nhân điều trị với ENBREL và anakinra thì thấy có tỉ lệ nhiễm trùng nặng hơn khi so với những bệnh nhân chỉ dùng đơn thuần hoặc ENBREL hoặc anakinra (dữ liệu hồi cứu). Hơn nữa, trong một nghiên cứu mù đôi so sánh với giả dược ở những bệnh nhân có tiền sử sử dụng methotrexate, những bệnh nhân sử dụng ENBREL và anakinra có tỉ lệ nhiễm trùng nặng cao hơn (7%) và giảm bạch cầu trung tính nhiều hơn những bệnh nhân điều trị với ENBREL (xem phần Chú ý đề phòng & thận trọng lúc dùng và Tác dụng ngoại ý). Sự kết hợp ENBREL và anakinra không làm tăng hiệu quả lâm sàng do đó không nên kết hợp.
Tác dụng ngoại ý
ENBREL đã được nghiên cứu trên 2,680 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp trong một nghiên cứu mù đôi mở. Thử nghiệm này bao gồm 2 nghiên cứu so sánh với giả dược (349 bệnh nhân dùng ENBREL và 152 bệnh nhân dùng giả dược) và 2 nghiên cứu so sánh với thuốc, trong đó một so sánh ENBREL với methotrexate (415 bệnh nhân dùng ENBREL và 217 bệnh nhân dùng methotrexate) và một nghiên cứu khác so sánh ENBREL (223 bệnh nhân), methotrexate (228 bệnh nhân) và ENBREL kết hợp với methotrexate (231 bệnh nhân). Tỉ lệ bệnh nhân ngưng điều trị do tác dụng phụ là tương đương nhau trong nhóm dùng ENBREL và nhóm giả dược; trong nghiên cứu thứ nhất so sánh với thuốc, tỉ lệ bỏ điều trị cao hơn đáng kể ở nhóm điều trị với methotrexate (10%) hơn là nhóm ENBREL (5%). Trong nghiên cứu so sánh với thuốc thứ hai, tỉ lệ ngưng điều trị, ENBREL (16%), methotrexate (21%) và ENBREL kết hợp với methotrexate (17%). Thêm vào đó, ENBREL cũng được nghiên cứu trong 131 bệnh nhân viêm khớp vảy nến tham gia vào 2 nghiên cứu mù đôi so sánh với giả dược và một nghiên cứu mở kéo dài. Năm trăm lẻ tám (508) bệnh nhân viêm cứng khớp đốt sống được điều trị với ENBREL trong 4 nghiên cứu mù đôi so sánh với giả dược. ENBREL cũng được nghiên cứu trên 1,084 bệnh nhân mảng vảy nến đến 6 tháng trong 3 nghiên cứu mù đôi so sánh với giả dược.
Trong một nghiên cứu mù đôi so sánh với ENBREL với giả dược, phản ứng tại vị trí tiêm là tác dụng phụ gặp nhiều nhất trong nhóm điều trị với ENBREL. Trong số những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp được điều trị trong nghiên cứu so sánh với giả dược, các tác dụng phụ nghiêm trọng xảy ra với tần suất là 4% trên 349 bệnh nhân điều trị với ENBREL so với 5% trên 152 bệnh nhân điều trị với giả dược. Trong nghiên cứu thứ nhất so sánh với thuốc, các tác dụng phụ nghiêm trọng xảy ra với tần suất là 6% trên 415 bệnh nhân điều trị với ENBREL so với 8% trên 217 bệnh nhân dùng methotrexate. Trong nghiên cứu thứ hai so sánh với thuốc tỉ lệ tác dụng phụ nghiêm trọng sau 2 năm điều trị là tương đương nhau trong 3 nhóm điều trị (ENBREL 16%, methotrexate 15% và ENBREL kết hợp methotrexate 17%). Trong số bệnh nhân bị mảng vảy nến trong các nghiên cứu so sánh với giả dược, tần suất tác dụng phụ nghiêm trọng vào khoảng 1% trên 933 bệnh nhân điều trị với ENBREL so với 1% trên 414 bệnh nhân điều trị với giả dược
Danh sách các tác dụng phụ dưới đây dựa trên kinh nghiệm từ các nghiên cứu lâm sàng trên người trưởng thành và các kinh nghiệm sau khi đưa thuốc ra thị trường.
Trong các hệ thống cơ quan, các phản ứng phụ được liệt kê theo tần suất (số bệnh nhân được cho là có phản ứng phụ), xếp loại theo: rất thường gặp (>1/10); thông thường (>1/100, <1/10); không thông thường (>1/1000, <1/100); hiếm (>1/10,000, <1/1000); rất hiếm (<1/10,000).
Các nhiễm trùng và nhiễm ký sinh trùng
Rất thường gặp: Nhiễm trùng (bao gồm nhiễm trùng đường hô hấp trên, viêm phế quản, viêm bàng quang, nhiễm trùng da)*
Không thường gặp: nhiễm trùng nặng (bao gồm viêm phổi, cellulites, viêm tế bào, viêm khớp nhiễm trùng, nhiễm trùng máu)*
Hiếm: Lao phổi
Các rối loạn trong hệ thống máu và bạch huyết
Không thường gặp: Giảm tiểu cầu
Hiếm gặp: Thiếu máu, chứng giảm bạch cầu, giảm bạch cầu trung tính, giảm toàn thể huyết cầu*
Rất hiếm: Thiếu máu bất sản*
Các rối loạn hệ thống miễn dịch
Thường gặp: Phản ứng dị ứng (xem phần Các rối loạn ở da và mô dưới da), hình thành tự kháng thể tự miễn*
Hiếm: Dị ứng nghiêm trọng/phản ứng phản vệ (gồm phù mạch, co thắt phế quản)
Rối loạn hệ thống thần kinh
Hiếm: Co giật
Mất myelin ở hệ thần kinh trung ương do đa xơ hóa hoặc các tình trạng mất myelin khu trú như là viêm dây thần kinh ở mắt và viêm thần kinh thị và viêm tủy cắt ngang (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng)
Các rối loạn gan mật
Hiếm: Tăng men gan
Các rối loạn da và mô dưới da
Thường gặp: Ngứa
Ít gặp: Phù mạch, mề đay, ban
Hiếm: Viêm mạch ở da (bao gồm viêm mạch leukocytolastic)
Các rối loạn ở hệ cơ xương, mô liên kết và xương
Hiếm gặp: Hồng ban lu pút dưới da bán cấp tính, hội chứng giống lu pút
Các rối loạn thông thường và tình trạng tại vị trí tiêm:
Rất thường gặp: Các phản ứng tại vị trí tiêm (bao gồm chảy máu, vết bầm, ban đỏ, ngứa, đau, sưng)*
Thường gặp: Sốt
Các rối loạn tim
Đã có những báo cáo về tình trạng xấu đi của suy tim sung huyết (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng)
* Xem các thông tin bổ sung bên dưới
Thông tin bổ sung
Các tác dụng phụ nghiêm trọng được báo cáo trong các thử nghiệm lâm sàng
Trong số các bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vảy nến, viêm cứng khớp đốt sống và mảng vảy nến trong các nghiên cứu so sánh với giả dược, so sánh với thuốc và mở của ENBREL, các tác dụng phụ nghiêm trọng được báo cáo gồm u ác tính (xem bên dưới), hen suyễn, nhiễm trùng (xem bên dưới), suy tim, nhồi máu cơ tim, thiếu máu cơ tim, đau ngực, ngất, thiếu máu cục bộ ở não, cao huyết áp, tụt huyết áp, viêm túi mật, viêm tụy, xuất huyết đường tiêu hóa, viêm bao hoạt dịch, lú lẫn, trầm cảm, khó thở, bất thường trong lành sẹo, suy thận, sỏi thận, thuyên tắc tĩnh mạch sâu, thuyên tắc tĩnh mạch phổi, bệnh cầu thận màng, viêm đa cơ, viêm tắc tĩnh mạch, tổn thương gan, giảm bạch cầu, tê, dị cảm, chóng mặt, viêm phế nang dị ứng, phù mạch, xơ cứng, gãy xương, bệnh bạch mạch. Viêm loét đại tràng, tắc ruột, giảm bạch cầu ái toan, tiểu máu, sarcoidosis.
Bệnh ác tính
Một trăm hai mươi chín bệnh ác tính mới thuộc nhiều loại khác nhau được quan sát thấy trong 4,114 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp được điều trị trong thử nghiệm lâm sàng với ENBREL trong khoảng thời gian lên đến 6 năm, bao gồm 231 bệnh nhân được điều trị với ENBREL kết hợp với methotrexate trong một nghiên cứu có kiểm soát chủ động trong 2 năm. Tỷ lệ và tần suất quan sát được trong những nghiên cứu lâm sàng này tương tự như của quần thể tham gia nghiên cứu. Tổng cộng có khoảng 2 ca ác tính trong 240 bệnh nhân viêm khớp vảy nến được điều trị với ENBREL trong các nghiên cứu lâm sàng khoảng 2 năm. Trong những nghiên cứu dài hơn 2 năm trên 351 bệnh nhân viêm cứng khớp đốt sống, 6 ca ác tính đã được ghi nhận trong số các bệnh nhân được điều trị với ENBREL. Hai mươi ba ca ác tính đã được báo cáo trong các bệnh nhân mảng vảy nến được điều trị với ENBREL trong các nghiên cứu mù đôi và mở kéo dài tới 15 tháng trên 1,261 bệnh nhân được điều trị với ENBREL.
Có khoảng 15 u hạch được báo cáo trong số 5,966 bệnh nhân được điều trị với ENBREL trong các nghiên cứu trên viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vảy nến, viêm cứng khớp đốt sống và vảy nến.
Đã có các báo cáo về nhiều bệnh ác tính (bao gồm carcinoma vú, phổi và u hạch) sau khi đưa thuốc ra thị trường (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng).
Phản ứng tại chỗ viêm
So sánh với giả dược, những bệnh nhân bệnh thấp được điều trị với ENBREL có tỉ lệ phản ứng tại chỗ tiêm cao hơn đáng kể (36% so với 9%). Các phản ứng tại chỗ tiêm thường xảy ra vào tháng thứ nhất. Thời gian trung bình là khoảng 3 đến 5 ngày. Trong nhóm ENBREL, đa số các phản ứng này không được điều trị và phần lớn bệnh nhân được điều trị bằng các chế phẩm bôi tại chỗ như corticoid hoặc thuốc kháng dị ứng đường uống. Thêm vào đó, một số bệnh nhân phát triển phản ứng viêm nhắc lại tại chỗ chích, biểu hiện bới phản ứng da nơi vừa mới chích xảy ra đồng thời với phản ứng da tại nơi đã chích trước đây. Những phản ứng này thường là thoáng qua và không tái phát khi điều trị.
Trong các nghiên cứu so sánh trên bệnh nhân bị mảng vảy nến, khoảng 14% bệnh nhân điều trị với ENBREL có phản ứng ở chỗ tiêm so với 6% bệnh nhân trong nhóm giả dược trong 12 tuần đầu điều trị.
Nhiễm trùng
Trong các nghiên cứu lâm sàng thực hiện trên bệnh nhân bị rối loạn kiểu thấp, nhiễm trùng đường hô hâp trên (“cảm lạnh”) và viêm xoang là những nhiễm trùng được báo cáo thường xuyên nhất ở những bệnh nhân được điều trị với ENBREL, hoặc giả dược. Trong các nghiên cứu so sánh với giả dược, tỉ lệ nhiễm trùng đường hô hấp trên là 17% ở nhóm giả dược và 22% ở nhóm điều trị với ENBREL. Những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp tham gia vào nghiên cứu so sánh với giả dược, có 0.68 biến cố nhiễm trùng trên mỗi bệnh nhân/năm trong nhóm giả dược và 0.82 biến cố trên mỗi bệnh nhân/năm trong nhóm điều trị với ENBREL. Trong các nghiên cứu đánh giá ENBREL so sánh với giả dược, không thấy tăng tỉ lệ nhiễm trùng nặng (tử vong, đe dọa tính mạng, phải nhập viện hoặc dùng kháng sinh đường tĩnh mạch). Trong số 2,680 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp điều trị với ENBREL lên đến 48 tháng bao gồm 231 người điều trị với ENBREL kết hợp methotrexate trong nghiên cứu kéo dài 2 năm có kiểm soát chủ động, 186 nhiễm trùng nặng được ghi nhận. Các nhiễm trùng nặng này gồm có áp-xe (ở những vị trí khác nhau), nhiễm khuẩn huyết, viêm phế quản, viêm bao hoạt dịch, viêm tế bào, viêm túi mật, tiêu chảy, viêm túi thừa, viêm nội tâm mạc (nghi ngờ), viêm dạ dày ruột, viêm gan B, herpes, loét chân, nhiễm trùng miệng, viêm xương tủy, viêm tai, viêm phúc mạc, viêm phổi, viêm đài bể thận, nhiễm trùng máu, viêm khớp nhiễm trùng, viêm xoang, nhiễm trùng da, loét da, nhiễm trùng đường tiểu, viêm mạch máu, nhiễm trùng vết thương. Trong một nghiên cứu kéo dài 2 năm có kiểm soát chủ động với các bệnh nhân được đơn trị với ENBREL hoặc với methotrexate hoặc EBREL kết hợp methotrexate, tỉ lệ nhiễm trùng nặng trong các nhóm tương đương nhau. Tuy nhiên không thể loại trừ sự kết hợp ENBREL với methotrexate có thể kết hợp với tăng tỉ lệ nhiễm trùng.
Trong các nghiên cứu so sánh với giả dược trên bệnh nhân bị viêm khớp vảy nến và mảng vảy nến, không có sự khác biệt về tỉ lệ nhiễm trùng trong số bệnh nhân được điều trị với ENBREL và những người sử dụng giả dược. Trong các nghiên cứu trên viêm khớp vảy nến, không có nhiễm rùng nặng ở những bệnh nhân điều trị với ENBREL. Trong các nghiên cứu mù đôi và hở trên các bệnh nhân mảng vảy nến kéo dài đến 15 tháng, các nhiễm trùng nặng xảy ra trong nhóm điều trị với ENBREL gồm có viêm tế bào, viêm dạ dày ruột, viêm phổi, viêm túi mật, viêm xương tủy và áp xe.
Nhiễm trùng nặng và gây chết đã được báo cáo khi dùng ENBREL, các bệnh sinh đã được báo cáo gồm vi khuẩn, mycobacteria (bao gồm lao phổi), virus và nấm. Một số xảy ra chỉ vài tuần sau khi bắt đầu điều trị với ENBREL ở những bệnh nhân có sẵn bệnh lý từ trước (ví dụ như tiểu đường, suy tim sung huyết, tiền sử bị nhiễm trùng tiến triển hoặc nhiễm trùng mãn tính) bên cạnh tình trạng viêm khớp dạng thấp (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng). Dữ liệu từ nghiên cứu lâm sàng không đặc hiệu trên các bệnh nhân viêm khớp dạng thấp gợi ý là ENBREL có thể làm tăng nguy cơ tử vong ở những bệnh nhân nhiễm trùng máu đã hình thành.
Kháng thể tự miễn
Các bệnh nhân được test mẫu huyết thanh tìm kháng thể tự miễn vào nhiều thời điểm. Trong số những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp được đánh giá về kháng thể kháng nhân (ANA), phần trăm bệnh nhân có phát triển ANA mới dương tính (≥ 1:40), nhóm điều trị với ENBREL (11%) cao hơn so với nhóm giả dược (5%). Phần trăm bệnh nhân phát triển kháng thể chống dải kép DNA mới cũng cao hơn khi xét nghiệm bằng huỳnh quang miễn dịch (15% bệnh nhân điều trị với ENBREL so với 4% điều trị bằng giả dược) và bằng thử nghiệm. Crithidia luciliae (3% bệnh nhân điều trị với ENBREL, so sánh với không có người nào trong nhóm giả dược). Tỉ lệ bệnh nhân điều trị với ENBREL có phát triển kháng thể kháng lipin của tim tăng với mức tương đồng với các bệnh nhân trong nhóm giả dược. Chưa rõ về tác động khi điều trị dài ngày với ENBREL trên sự phát triển của các bệnh tự miễn.
Hiện chỉ có rất ít các báo cáo của bệnh nhân, bao gồm những bệnh nhân có yếu tố thấp dương tính, đã phát triển các kháng thể tự miễn khác kết hợp với một hội chứng giống lupus hay phát ban tương ứng với lupus da bán cấp hay lupus dạng đĩa trên lâm sàng hoặc sinh thiết.
Thiếu máu toàn phần và thiếu máu giảm sản
Đã có báo cáo về thiếu máu toàn phần và thiếu máu giảm sản sau khi đưa thuốc ra thị trường, một số trường hợp tử vong (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng)
Xét nghiệm
Dựa trên kết quả của các nghiên cứu lâm sàng, rõ ràng là không cần thêm những xét nghiệm đặc biệt nào ngoài việc điều trị và giám sát bệnh nhân cẩn thận.
Điều trị ENBREL cùng lúc với anakinrra
Trong các nghiên cứu khi bệnh nhân điều trị với ENBREL đồng thời với anakinra, tỉ lệ nhiễm trùng nặng cao hơn so với điều trị đơn thuần với ENBREL và 2% bệnh nhân (3/139) có phát triển giảm bạch cầu trung tính (số lượng bạch cầu trung tính tuyệt đối đếm được < 1000/mm3). Trong khi bị giảm bạch cầu trung tính, một bệnh nhân còn bị viêm tế bào và được chữa khỏi sau khi nhập viện (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng và Tương tác thuốc)
Tác dụng phụ ở bệnh nhi bị viêm khớp không rõ nguyên nhân
Nói chung, tác dụng phụ ở bệnh nhi cũng tương tự về tần suất và kiểu như ở người trưởng thành. Những khác biệt ở người lớn và các xem xét đặc biệt khác được thảo luận trong các đoạn dưới.
Các tác dụng phụ nghiêm trọng được báo cáo trong một nghiên cứu trên 69 bệnh nhi viêm khớp không rõ nguyên nhân tuổi từ 4 đến 17 bao gồm thủy đậu với các dấu hiệu và triệu chứng viêm màng não vô trùng được điều trị khỏi không có di chứng (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng), viêm dạ dày ruột, trầm cảm/rối loạn nhân cách, loét da, viêm thực quản/viêm dạ dày, sốc nhiễm trùng với Streptococcus nhóm A, tiểu đường loại 1, và viêm mô mềm và viêm ở vết thương sau mổ.
Bốn mưới ba trên 69 (62%) bệnh nhi với viêm khớp không rõ nguyên nhân ở người trẻ bị nhiễm trùng khi đang điều trị với ENBREL trong 3 tháng nghiên cứu (giai đoạn 1, nghiên cứu mở), với tần suất và mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng là tương đương nhau trong 58 bệnh nhân đã hoàn tất 12 tháng trị liệu trong nghiên cứu mở kéo dài. Các kiểu nhiễm trùng đã được ghi nhận ở những bệnh nhân viêm khớp người trẻ vô căn nói chung thường là nhẹ và tương tự với những nhiễm trùng thường gặp trên những mẫu bệnh nhi ngoại trú. Kiểu và tỉ lệ tác dụng phụ ở bệnh nhân viêm khớp trẻ vô căn cũng tương tự như ở những bệnh nhân người lớn trong nghiên cứu ENBREL cho bệnh nhân trưởng thành viêm khớp dạng thấp, và đa số là nhẹ. Vài tác dụng phụ được báo cáo thường gặp hơn ở 69 bệnh nhân viêm khớp trẻ vô căn được điều trị với ENBREL trong 3 tháng so với 349 bệnh nhân trưởng thành bị viêm khớp dạng thấp. Các tác dụng phụ này gồm có nhức đầu (19% bệnh nhân, 1.7 lần trên mỗi bệnh nhân mỗi năm), buồn nôn (9%, 1.0 lần trên mỗi bệnh nhân mỗi năm), đau bụng (19%, 0.74 lần trên mỗi bệnh nhân mỗi năm), và nôn mửa (13%, 0.74 lần trên mỗi bệnh nhân mỗi năm).
Lưu ý bệnh nhân thông báo cho bác sỹ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
Tương kỵ
Do chưa có nghiên cứu về tương kỵ, không nên trộn lẫn dược phẩm này với các thuốc khác.
Quá liều
Không quan sát thấy độc tính liên quan đến liều trong quá trình nghiên cứu lâm sàng trên bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Mức liều cao nhất được đánh giá là 32 mg/m2 tiêm tĩnh mạch tiếp theo sau 16 mg/m2 tiêm dưới da hai lần/tuần. Một bệnh nhân viêm khớp dạng thấp đã tự dùng thuốc đến liều 62 mg ENBREL tiêm dưới da hai lần/tuần trong 3 tuần mà không thấy có tác dụng phụ. Chưa có thuốc giải cho ENBREL.
Bảo quản
Trước khi pha tiêm, bột ENBREL phải được bảo quản ở tủ lạnh từ 2oC đến 8oC.
Không làm đông đá.
Sau khi pha tiêm dùng ngay lập tức. Độ ổn định lý hóa khi dùng đã được chứng minh là 48 giờ ở 2o-8oC. Từ quan điểm vi sinh, nên dùng thuốc ngay lập tức. Nếu không thể sử dụng ngay, nhà sản xuất không chịu trách nhiệm về thời gian bảo quản khi sử dụng và thường không quá 6 giờ ở nhiệt độ từ 2o-8oC, trừ phi thuốc được pha trong những điều kiện vô trùng.
Nguồn: Vidal Việt Nam 2012
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.