Bài viết sau đây chúng ta cùng tìm hiểu về hội chứng ruột kích thích (IBS) là một rối loạn mãn tính, phổ biến, làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Những tiến bộ trong hiểu biết của chúng ta về trục vi sinh vật não – ruột, sự phát triển của các ngành khoa học thần kinh nhận thức và khoa học can thiệp hành vi đã chỉ ra rằng, liệu pháp tâm lý có hiệu quả trong việc điều trị trầm cảm, lo âu và đau mãn tính và có thể được điều chỉnh để quản lý các triệu chứng cơ bản như đau bụng, thay đổi thói quen đi tiêu,… khiến chất lượng cuộc sống suy giảm.
1. Sinh lý bệnh IBS
Cơ chế bệnh sinh của IBS rất phức tạp và được giải thích tốt nhất bằng cách sử dụng mô hình tâm lý xã hội sinh học, bao gồm các yếu tố xã hội sinh học và tâm lý. Chúng đều có thể góp phần vào sự tiến triển và duy trì bệnh. Các yếu tố di truyền và môi trường có thể ảnh hưởng đến rối loạn cũng như các đặc điểm tính cách đặc biệt. Những đặc điểm này có thể tạo điều kiện cho bệnh phát triển.
Các yếu tố tâm lý xã hội đa dạng cũng rất quan trọng đối với IBS, ví dụ như kinh nghiệm đầu đời, nhiễm trùng, chấn thương, căng thẳng, nền tảng văn hóa và cả mức độ hỗ trợ mà cá nhân nhận được. Kinh nghiệm sống tiêu cực được coi là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của IBS. Những người trải qua nhiều sự kiện tiêu cực hơn (nghiêm trọng hoặc thường xuyên) cho thấy tỷ lệ mắc IBS cao hơn và có thể có tiến triển nghiêm trọng hơn.
Trục ruột – não là một hệ thống liên lạc hai chiều giữa ruột và hệ thần kinh trung ương. Các con đường thần kinh liên quan cũng như các tín hiệu dịch thể truyền thông tin từ đường tiêu hóa đến hệ thần kinh trung ương. Thông tin được xử lý ở các vùng não khác nhau và thường phản hồi trở lại ruột. Trục não – ruột bị rối loạn có thể dẫn đến thay đổi nhu động ruột, phản ứng miễn dịch của ruột hoặc tính thấm của ruột, có thể thúc đẩy các phản ứng viêm và góp phần gây ra quá mẫn nội tạng.
Tầm quan trọng của trục não – ruột trong sinh lý bệnh của IBS cũng được phản ánh trong tiêu chí Rome IV, nơi IBS được xếp vào nhóm các bệnh có tương tác não – ruột rối loạn. Sự tương tác mật thiết giữa ruột và não cũng giải thích sự trùng lặp cao giữa IBS và các bệnh tâm thần, điều này cũng có tác động đến việc lựa chọn các thành phần điều trị. Các bệnh tâm thần thường gặp nhất là rối loạn lo âu (30 – 50%), trầm cảm (70%) nhưng cũng có thể ít gặp hơn là rối loạn ăn uống.
2. Tổng quan liệu pháp tâm lý trong điều trị về hội chứng ruột kích thích (IBS)
Bên cạnh thay đổi lối sống, tư vấn chế độ ăn uống và điều trị bằng thuốc, liệu pháp tâm lý là một phương pháp quan trọng trong điều trị IBS. Không phải mọi bệnh nhân đều phải trải qua liệu pháp tâm lý nhưng đặc biệt, ở những bệnh nhân không có đủ hỗ trợ xã hội, từng trải qua các biến cố đau thương trong quá khứ hoặc các rối loạn chức năng, liệu pháp tâm lý nên được xem xét sớm. Hơn nữa, những bệnh nhân mắc bệnh tâm thần đi kèm hoặc những bệnh nhân không cho thấy sự cải thiện đáng kể sau khi điều trị bằng các lựa chọn điều trị khác (ví dụ như thuốc) cũng nên được xem xét để trị liệu tâm lý.
Các hướng dẫn của National Institute of Health and Care Excellence (NICE) khuyến nghị dùng liệu pháp tâm lý cho những bệnh nhân không đáp ứng với các phương pháp điều trị bằng thuốc sau 12 tháng và phát triển IBS dai dẳng. Các lựa chọn bao gồm giáo dục tâm lý, tự lực, liệu pháp hành vi nhận thức, liệu pháp tâm lý động lực học, liệu pháp thôi miên, liệu pháp dựa trên chánh niệm và liệu pháp thư giãn. Khả năng thành công của một can thiệp tâm lý cao hơn ở những bệnh nhân có động cơ và cởi mở với liệu pháp tâm lý đó.
Một phân tích tổng hợp gần đây hơn bao gồm 41 thử nghiệm với tổng thể 2.290 cá nhân và so sánh các biện pháp can thiệp tâm lý với sự kết hợp của nhiều phương pháp kiểm soát khác nhau. Nó cho thấy rằng, các can thiệp tâm lý trị liệu làm giảm các triệu chứng ngay sau khi điều trị, trong khi 1 – 6 tháng (ngắn hạn) và 6 – 12 tháng (dài hạn) sau khi bắt đầu điều trị, mức giảm vẫn đáng kể khi so với nhóm được áp dụng các phương pháp hỗn hợp. Ngoài ra, một phân tích tổng hợp khác đã phân tích ảnh hưởng của các can thiệp tâm lý trị liệu đối với sức khỏe tâm thần và hoạt động hàng ngày của bệnh nhân. Tất cả các can thiệp trị liệu tâm lý đều cho thấy sự cải thiện nhiều hơn về sức khỏe tâm thần và hoạt động hàng ngày của bệnh nhân IBS. Sau đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu kỹ hơn một số liệu pháp tâm lý cụ thể trong điều trị IBS.
Bên cạnh điều trị bằng thuốc,liệu pháp tâm lý là một phương pháp quan trọng trong điều trị IBS
3. Phương pháp giáo dục tâm lý
Điều quan trọng là bác sĩ cần có thời gian để giải thích tình trạng bệnh cho bệnh nhân. Bao gồm tên của bệnh, sự phát triển, sinh lý bệnh, tiên lượng và các lựa chọn điều trị khác nhau. Nếu thông tin này được cung cấp theo mô hình tâm lý xã hội sinh học, nó sẽ được gọi là giáo dục tâm lý. Hơn nữa, giáo dục tâm lý là chìa khóa cho một mối quan hệ đáng tin cậy giữa bác sĩ – bệnh nhân, tác động lớn đến diễn biến của bệnh và giảm các triệu chứng.
Giáo dục tâm lý cũng có thể giúp giảm / tránh các cuộc kiểm tra lặp đi lặp lại không cần thiết và / hoặc các can thiệp điều trị không phù hợp vì điều này có thể làm tăng xác suất quan niệm không chính xác về rối loạn và có khả năng gây hại cho bệnh nhân. Do đó, Tổ chức Tiêu hóa Thế giới đề cập trong hướng dẫn toàn cầu của mình rằng việc giáo dục bệnh nhân về IBS có tác động tích cực đến kết quả điều trị.
Một nghiên cứu đã sử dụng phương pháp điều trị tâm lý với thông tin về sinh lý bệnh kết hợp với các yếu tố của liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) và thư giãn cơ tiến triển trong 5 tuần. Sau liệu trình điều trị tâm thần này, các bệnh nhân cho biết đã giảm đáng kể các triệu chứng trầm cảm cải thiện chất lượng cuộc sống so với nhóm đối chứng. Những tác dụng này vẫn tồn tại sau khi theo dõi 3 tháng.
Một nghiên cứu khác sử dụng phương pháp giáo dục nhóm dựa trên mô hình tâm lý xã hội sinh học với các khía cạnh của CBT so với nhóm đối chứng sử dụng sách hướng dẫn IBS. Các bệnh nhân được giáo dục theo nhóm báo cáo sự gia tăng kiến thức đáng kể sau 3 và 6 tháng so với nhóm sử dụng sách hướng dẫn. Việc giáo dục theo nhóm đã giảm bớt sự lo lắng theo triệu chứng cụ thể, trong khi không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm về chất lượng cuộc sống, các triệu chứng lo âu và các phàn nàn về trầm cảm. Tuy nhiên, đã có sự gia tăng chất lượng cuộc sống và giảm lo lắng ở nhóm được giáo dục theo nhóm so với khi bắt đầu điều trị.
4. Tự lực hội chứng ruột kích thích
Tự lực có thể được hỗ trợ bằng việc tư vấn chi tiết và cung cấp thông tin về IBS, ví dụ, với cẩm nang hoặc sách hướng dẫn. Bệnh nhân có thể học hỏi về kinh nghiệm, chiến lược đối phó hoặc các lựa chọn điều trị. Điều này khuyến khích sự tự quản lý của bệnh nhân.
Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đã nghiên cứu ảnh hưởng của các phương pháp tự lực khác nhau đối với tần suất các cuộc hẹn với bác sĩ và mức độ nghiêm trọng của triệu chứng. Một nhóm nhận được sổ tay hướng dẫn tự lực, nhóm còn lại đến thăm nhóm tự lực mỗi tuần một lần. Hai nhóm này được so sánh với một nhóm chứng được chăm sóc ngoại trú thông thường.
So với nhóm đối chứng, nhóm tự lực giảm các cuộc hẹn với bác sĩ (ít hơn 60% trong 1 năm) đi kèm với giảm chi phí y tế (ít hơn 40%). Nhóm can thiệp cho thấy sự cải thiện đáng kể về các phàn nàn so với khi bắt đầu nghiên cứu. Tuy nhiên, không có sự khác biệt liên quan đến mức độ nghiêm trọng của triệu chứng và chất lượng cuộc sống giữa các nhóm.
Một thử nghiệm khác đã nghiên cứu ảnh hưởng của sổ tay hướng dẫn tự lực đối với chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe. Sau 6 tháng can thiệp, chất lượng cuộc sống được cải thiện đáng kể. Tác dụng này cũng được quan sát thấy ở những bệnh nhân có các bệnh lý tâm thần đi kèm như trầm cảm, lo âu hoặc rối loạn trạng thái ngủ. Mức độ nghiêm trọng của bệnh tâm thần đã giảm dần theo thời gian.
5. Liệu pháp hành vi nhận thức hội chứng ruột kích thích
Hầu hết các can thiệp tâm lý trong điều trị IBS dựa trên liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) nhằm mục đích giảm thiểu nỗi sợ hãi vô lý và điều chỉnh các kiểu hành vi. Mặc dù CBT cho kết quả tốt nhưng nó không phải lúc nào nó cũng phù hợp và cần nhiều nhân lực. Do đó, việc áp dụng cũng phụ thuộc vào ý định của bệnh nhân, chuyên môn của chuyên gia và các nguồn lực sẵn có.
Một phân tích tổng hợp từ năm 2019 đã nghiên cứu 9 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (RCT) so với nhóm đối chứng với tổng số 610 bệnh nhân. Ở 145 trong số 349 (41,5%) bệnh nhân đang điều trị CBT, các triệu chứng không cải thiện; so với 166 trong số 261 (63,6%) bệnh nhân trong nhóm đối chứng đã cho thấy tác dụng có lợi của CBT.
Một thử nghiệm cho thấy, nhóm CBT giảm 50% các triệu chứng tiêu hóa, lo âu và trầm cảm ở so với điểm số triệu chứng được đánh giá lúc ban đầu. Một nghiên cứu khác đã nghiên cứu sự kết hợp giữa thư giãn cơ, các chiến lược hành vi nhận thức và cách tiếp cận giải quyết vấn đề so với phương pháp điều trị y tế tiêu chuẩn bằng thuốc và các cuộc hẹn thường xuyên với bác sĩ tiêu hóa. Nhóm được điều trị tâm lý kéo dài cho thấy giảm các triệu chứng về hội chứng ruột kích thích và tăng chỉ số hạnh phúc, chất lượng cuộc sống và khả năng kiểm soát bệnh tật sau 3 và 6 tháng so với nhóm đối chứng có các triệu chứng không thay đổi. Nghiên cứu này cho thấy sự kết hợp giữa điều trị bằng thuốc và các can thiệp tâm lý là ưu việt hơn so với điều trị nội khoa đơn thuần.
Một RCT gần đây hơn đã sử dụng một chương trình trực tuyến dựa trên CBT. Tổng số 86 bệnh nhân được đưa vào nhóm đối chứng hoặc nhóm điều trị ngẫu nhiên. Các chỉ số đo lường chính là mức độ nghiêm trọng của triệu chứng IBS, chất lượng cuộc sống, lo lắng, trầm cảm và hoạt động chung. Bệnh nhân trong nhóm điều trị báo cáo giảm 42% các triệu chứng IBS so với nhóm đối chứng báo cáo tăng 12% các triệu chứng IBS. Theo dõi sau 15 và 18 tháng cũng cho thấy nhóm được can thiệp tâm lý có cải thiện về các triệu chứng, chất lượng cuộc sống và lo lắng.
Tương tự, phương pháp điều trị trên Internet với CBT có tác dụng tích cực ở thanh thiếu niên mắc IBS. Một nghiên cứu có đối chứng cho thấy, nhóm có liệu pháp tâm lý trực tuyến sau can thiệp 10 tuần đã giảm các triệu chứng tiêu hóa và cải thiện chất lượng cuộc sống so với nhóm chứng. Các triệu chứng lo âu và trầm cảm cũng giảm trong quá trình can thiệp nhưng không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm điều trị và nhóm đối chứng. Theo dõi sau 6 tháng cho thấy các tác dụng vẫn không đổi. Sự sợ hãi, chất lượng cuộc sống và tần suất đau tiếp tục giảm hơn nữa trong quá trình theo dõi.
Một nghiên cứu lớn trên 436 bệnh nhân IBS được chỉ định điều trị CBT tiêu chuẩn (10 buổi hàng tuần, 60 phút / buổi với thông tin về tương tác não – ruột, tự theo dõi các triệu chứng và thư giãn cơ), 4 buổi tập CBT chủ yếu tại nhà với bác sĩ trị liệu theo chương trình tương tác tối thiểu (MC-CBT), hoặc 4 buổi giáo dục IBS (EDU). Sau 12 tuần, một tỷ lệ cao hơn các bệnh nhân MC-CBT báo cáo sự cải thiện các triệu chứng tiêu hóa (61%) so với bệnh nhân EDU (43%), trong khi 55% bệnh nhân trong nhóm CBT cho thấy sự cải thiện.
Vào thời điểm 6 tháng sau khi kết thúc điều trị, một sự khác biệt đáng kể đã được quan sát thấy giữa MC-CBT (58,4%) và EDU (44,8%) liên quan đến việc cải thiện các triệu chứng ruột. Cả hai phương pháp CBT (CBT và MC-CBT) đều cho thấy sự hài lòng của bệnh nhân cao hơn đáng kể so với EDU. Kết quả cho thấy MC-CBT có hiệu quả như CBT tiêu chuẩn. Do đó, CBT cũng có thể được cung cấp trên cơ sở y tế từ xa với sự tiếp xúc tối thiểu với bác sĩ trị liệu, điều này giúp giảm đáng kể chi phí điều trị. Phù hợp với giả định này, một nghiên cứu khác đã điều tra CBT qua điện thoại (TCBT) và CBT dựa trên web (WCBT) so với điều trị như thông thường (TAU). Nghiên cứu cho thấy rằng, cả hai phương pháp CBT đều dẫn đến cải thiện mức độ nghiêm trọng của IBS và các chiến lược đối phó so với TAU. Cả hai phương pháp đều hiệu quả về mặt chi phí.
Liệu pháp hành vi nhận thức là một giải pháp thay thế hiệu quả về chi phí cho việc điều trị hội chứng ruột kích thích bằng thuốc
6. Tâm động học hội chứng ruột kích thích
Tâm động học tập trung vào các xung đột nội bộ và giữa các cá nhân và cách chúng đóng góp vào sự phát triển và duy trì các triệu chứng. Liệu pháp tâm lý động lực học đã được chứng minh là dẫn đến cải thiện các triệu chứng ruột kích thích IBS nên được Tổ chức Tiêu hóa Thế giới khuyên dùng.
Một nghiên cứu từ năm 1983 đã nghiên cứu tác động của các can thiệp tâm động học đối với các triệu chứng của IBS. Một nhóm nhận được liệu pháp y tế còn một nhóm được can thiệp tâm động học. So với nhóm đối chứng chỉ sử dụng liệu pháp y tế, nhóm can thiệp cho thấy sự cải thiện rõ rệt hơn các triệu chứng sau 3 tháng. Sự cải thiện vẫn được quan sát thấy sau 1 năm.
Một RCT cho thấy rằng, can thiệp tâm động học có liên quan đến việc giảm xung đột giữa các cá nhân. Việc giảm xung đột giữa các cá nhân là một yếu tố dự báo cho sự cải thiện tình trạng sức khỏe so với liệu pháp y tế. Tuy nhiên, nhóm đối chứng dùng thuốc chống trầm cảm cũng cho thấy giảm các triệu chứng soma.
Một nghiên cứu khác đã so sánh tác dụng của can thiệp tâm động lực học với điều trị bằng paroxetine (chất ức chế tái hấp thu có chọn lọc serotonin, SSRI). Kết quả là không có sự khác biệt đáng kể liên quan đến giảm đau sau 3 tháng. Sau 1 năm, cả hai biện pháp can thiệp đều cải thiện thành phần chất lượng cuộc sống soma. Nhìn chung, liệu pháp tâm lý động lực học là một giải pháp thay thế hiệu quả về chi phí cho liệu pháp điều trị bằng thuốc của IBS.
7. Liệu pháp thôi miên
Liệu pháp thôi miên là một phương pháp tập trung vào nhận thức các triệu chứng đường ruột kích thích. Nhà trị liệu sẽ cố gắng truyền đạt khả năng kiểm soát hội chứng ruột kích thích cho bệnh nhân để đạt được sự thay đổi trong phản ứng của cá nhân đối với các triệu chứng soma. Tổ chức tiêu hóa thế giới khuyến cáo liệu pháp thôi miên cho bệnh nhân IBS không điều trị bằng thuốc. Tuy nhiên, mặc dù phương pháp thôi miên cho thấy sự an toàn và dễ dung nạp hơn so với điều trị bằng thuốc nhưng nó có thể tốn nhiều công sức và không phải lúc nào cũng có thể dùng được.
Một nghiên cứu từ năm 1984 đã điều tra tác dụng của liệu pháp thôi miên ở bệnh nhân IBS khó điều trị so với liệu pháp tâm lý hỗ trợ. Nhóm được điều trị bằng liệu pháp thôi miên cho thấy sự cải thiện đáng kể về cơn đau, chứng đầy hơi, thay đổi thói quen đi tiêu và sức khỏe chung. Theo dõi sau 3 tháng, nhóm đã cho thấy sự cải thiện các triệu chứng dai dẳng. Một nghiên cứu khác cho thấy rằng, cả các buổi trị liệu thôi miên 1 – 1 và các buổi nhóm đều liên quan đến việc cải thiện chất lượng cuộc sống, các triệu chứng soma và tâm lý.
Trong một nghiên cứu từ năm 2003, 23 bệnh nhân bị IBS và tăng / giảm độ nhạy trực tràng hoặc không đã được điều trị bằng liệu pháp thôi miên trong 12 tuần và nhận thức cảm giác của họ được so sánh với nhóm đối chứng khỏe mạnh. Nghiên cứu cho thấy, liệu pháp thôi miên có thể cải thiện nhận thức cảm giác bất thường ở bệnh nhân IBS.
Một nghiên cứu khác từ năm 2004 đã điều tra phản ứng dạ dày của bệnh nhân IBS đang trải qua liệu pháp thôi miên và cho thấy sự giảm thành phần cảm giác và vận động của phản ứng dạ dày. Liệu pháp thôi miên cũng có ảnh hưởng đến quá trình xử lý và nhận thức các kích thích nội tạng ở bệnh nhân IBS. Một nghiên cứu sử dụng fMRI (chụp cộng hưởng từ chức năng) cho rằng liệu pháp thôi miên có thể bình thường hóa những nhận thức bị thay đổi. Cuối cùng, một nghiên cứu cho thấy rằng, trẻ em bị IBS được hưởng lợi từ liệu pháp dựa trên Cd ở mức độ tương tự như từ các buổi trị liệu 1 – 1. Do đó, liệu pháp thôi miên cũng có thể được áp dụng như một cách tiết kiệm chi phí cho các bệnh nhân IBS.
Liệu pháp tâm lý thôi miên là một phương pháp tập trung vào nhận thức các triệu chứng đường ruột
8. Liệu pháp dựa trên chánh niệm
Liệu pháp dựa trên chánh niệm kết hợp giảm căng thẳng và các yếu tố từ CBT. Bệnh nhân học cách nhận thức những lời phàn nàn và đối phó với chúng tốt hơn. Hiện nay, mới chỉ có một số lượng nhỏ các nghiên cứu điều tra các liệu pháp dựa trên chánh niệm.
Một nghiên cứu tiền cứu đã điều tra tác động của một chương trình giảm căng thẳng với các thông số như sự phàn nàn về ruột, chất lượng cuộc sống và lo lắng về triệu chứng tiêu hóa cụ thể ở bệnh nhân IBS. Nghiên cứu không cho thấy hiệu quả sau 2 tháng nhưng sau 6 tháng, chất lượng cuộc sống được cải thiện và bệnh nhân đã giảm lo lắng theo triệu chứng cụ thể. Tuy nhiên, các phàn nàn liên quan đến ruột kích thích không thay đổi đáng kể.
Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với 75 bệnh nhân IBS nữ cho thấy họ đã giảm các triệu chứng tiêu hóa sau 8 tuần điều trị dựa trên chánh niệm so với nhóm đối chứng chỉ có hỗ trợ xã hội. Theo dõi sau 3 tháng cho thấy sự giảm sút kéo dài liên quan đến việc cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm căng thẳng. Các nghiên cứu khác với bệnh nhân IBS nữ cũng đã báo cáo sự cải thiện đáng kể về mức độ nghiêm trọng của triệu chứng và chất lượng cuộc sống sau 8 tuần điều trị dựa trên chánh niệm so với nhóm đối chứng.
Liệu pháp dựa trên chánh niệm làm giảm sự nhạy cảm của nội tạng, căng thẳng tinh thần hoặc đánh giá quá mức về căng thẳng. Hơn nữa, những bệnh nhân bị IBS trải qua khóa đào tạo về chánh niệm cho thấy sự không phản ứng với sự lo lắng tập trung vào ruột kích thích và đánh giá tác hại so với nhóm đối chứng có hỗ trợ xã hội.
Cuối cùng, trong một nhóm nghiên cứu gồm 90% phụ nữ và 10% nam giới, một liệu pháp dựa trên chánh niệm đã được áp dụng trong 8 tuần cho thấy các phàn nàn về hội chứng ruột kích thích giảm đáng kể so với các bệnh nhân đối chứng ruột kích thích trong danh sách chờ. Mức độ căng thẳng đã giảm nhưng không có sự khác biệt đáng kể về chất lượng cuộc sống và tâm trạng giữa hai nhóm. Kết quả sau 6 tháng cho thấy không có sự khác biệt giữa cả hai nhóm do số lượng phàn nàn trở lại. Do đó, liệu pháp dựa trên chánh niệm có thể phải được bổ sung bằng các phương pháp điều trị khác để có tác dụng lâu dài hơn.
Tóm lại, bệnh nhân IBS thường cho biết gánh nặng bệnh tật liên quan đến sự suy giảm đáng kể chất lượng cuộc sống. Tâm lý trị liệu là một liệu pháp điều trị quan trọng cho bệnh nhân IBS với các liệu trình sẵn có khác nhau, tất cả đều được dựa trên các bằng chứng khoa học cho đến nay. Do đó, Tổ chức Tiêu hóa Thế giới tuyên bố rằng, liệu pháp CBT, liệu pháp thôi miên và tâm động lực học có hiệu quả hơn trong việc cải thiện các triệu chứng IBS trên toàn cầu so với việc chăm sóc thông thường.
Thông tin cần tư vấn liên hệ 0978342324 hoặc truy cập thuockedon24h.com để được hỗ trợ.